PHẠM ĐỨC BAN – BIỆN MINH ĐIỀN
NGHIÊN CỨU, TÌM HIỂU NHỮNG GIÁ TRỊ
TIÊU BIỂU CỦA TRUYỆN KIỀUỞ GÓC ĐỘ
GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT
Hà Tĩnh, 2024
MỤC LỤC
Tr Chương 1
NHỮNG GIÁ TRỊ TIÊU BIỂU CỦA TRUYỆN KIỀU
Ở GÓC ĐỘ GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT
4 41.1.1. Một vài giới thuyết cần thiết41.1.1.1. Khái niệm giá trị và giá trị của một tác phẩm văn học41.1.1.2. Hai bình diện giá trị của một tác phẩm văn học51.1.2. Lịch sử tiếp cận Truyện Kiều từ phía phương thức thể hiện và ý thức đi tìm giá trị nghệ thuật của tác phẩm71.1.3. Tổng quan về phương thức thể hiện và giá trị nghệ thuật của Truyện Kiều121.2. Những giá trị tiêu biểu của Truyện Kiều ở góc độ giá trị nghệ thuật.191.2.1. Giá trị của ngôn ngữ/ tiếng Việt qua Truyện Kiều191.2.1.1. Ngôn ngữ Truyện Kiều kết tinh thành tựu và tinh hoa của tiếng Việt, giúp tiếng Việt phát triển theo hướng phong phú, đa năng và chuẩn hoá191.2.1.2. Ngôn ngữ Truyện Kiều thuộc loại hình ngôn ngữ nghệ thuật, trong sáng, tinh tế, giàu tính tạo hình và biểu cảm, giàu chất thơ, tính thơ 271.2.1.3. Ngôn ngữ Truyện Kiều đáp ứng cao nhất mọi yêu cầu của ngôn ngữ thể loại mà tác phẩm sử dụng351.2.2. Giá trị nghệ thuật của thể loại thuần Việt từ Truyện Kiều 412.2.2.1. Vai trò, chức năng, nội dung và thi pháp của thể loại văn học411.2.2.2.Thể loại Truyện Kiều và những đóng góp của Nguyễn Du cho lịch sử văn học dân tộc421.2.3. Giá trị của nghệ thuật tự sự - trữ tình gắn với phân tích tâm lý nhân vật trong Truyện Kiều của Nguyễn Du531.2.3.1. Vấn đề tự sự và trữ tình của Nguyễn Du trong Truyện Kiều531.2.3.2. Phương pháp tự sự, trữ tình và mối quan hệ giữa tự sự - trữ tình trong Truyện Kiều của Nguyễn Du551.2.3.3. Cái tôi tác giả, nhân vật người kể chuyện và điểm nhìn trần thuật57Chương 2
ẢNH HƯỞNG NHỮNG GIÁ TRỊ TIÊU BIỂU CỦA
TRUYỆN KIỀU Ở GÓC ĐỘ GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT
622.1. Ảnh hưởng của các giá trị tiêu biểu của Truyện Kiều ở góc độ giá trị nghệ thuật đến lịch sử văn học nghệ thuật Việt Nam và thế giới622.1.1. Ảnh hưởng sâu sắc của Truyện Kiều đến lịch sử văn học nghệ thuật dân tộc 622.1.2. Ảnh hưởng mang tầm quốc tế - nhân loại của Truyện Kiều 662.2. Ảnh hưởng hay là hiện tượng Parody nghệ thuật Truyện Kiều trong lịch sử văn học-nghệ thuật và đời sống văn hoá-tinh thần người Việt 692.2.1. Từ tác động của các giá trị nghệ thuật tiêu biểu của Truyện Kiều đến hiện trượng Parody (nhại) tác phẩm692.2.1.1. Khái luận về hiện tượng Parody (nhại)692.2.1.2. Hiện tượng Parody (nhại) Truyện Kiều tạo thành một loại hình văn hoá Truyện Kiều hiếm có712.2.2. Parody (nhại) ngôn ngữ Truyện Kiều 72 2.2.3. Parody (nhại) thể loại Truyện Kiều 73
Chương 3
CÁC GIẢI PHÁP BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ TIÊU BIỂU 75
CỦA TRUYỆN KIỀU Ở GÓC ĐỘ GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT
1. Mục đích yêu cầu 75 2. Cơ sở để xây dựng giải pháp 76
2.1. Luật Di sản Văn hóa
2.2.Chủ trương đường lối của Đảng về Di sản Văn hóa
2.3. Vị trí, vai trò những giá trị tiêu biểu của Truyện Kiều
3. Các nhóm giải pháp 82 3.1. Nhóm giải pháp kinh tế xã hội 82
3.1.1.Chính sách kinh tế xã hội 83
3.1.2.Chính sách quản lý kinh tế xã hội 84 3.2.Nhóm giải pháp văn hóa : 85
3.2.1.Khái quát 87
3.2.2.Giải pháp tuyên truyền giáo dục 88 2.3.Tiếp tục tìm nguyên bản Truyện Kiều 88 3.2.4.Tăng cường phương thức diễn dịch nghệ thuật dân gian 89
3.2.5.Tăng cường phương thức diễn dịch nghệ thuật bác học 92
3,2,6.Giải pháp trao quyền 93 3.3. Nhóm giải pháp chuyên ngành. 94 3.3.1.Xây dựng không gian văn hóa Nguyễn Du- Truyện Kiều 94
3.3.2.Thành lập Trung tâm Kiều học 96 3.4. Giải pháp đào tạo nguồn lực 97 KẾT LUẬN 99 TÀI LIỆU THAM KHẢO 103
Chương 1
NHỮNG GIÁ TRỊ TIÊU BIỂU CỦA TRUYỆN KIỀU
NHÌN TỪ GÓC ĐỘ GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT
1.1. Vấn đề nhìn Truyện Kiều (Nguyễn Du) từ giá trị nghệ thuật
1.1.1. Một vài giới thuyết cần thiết
1.1.1.1. Khái niệm giá trị và giá trị của một tác phẩm văn học
Khái niệm “giá trị” (values), theo M. Robin - Jr. Wilhia, “có thể quy chiếu vào những mối quan tâm (ïnteresis), những thích thú (pleasures), những cái ưa thích (likcs), những sở thích (prefercnces), những bổn phận (duties), những trách nhiệm tinh thần (moral obligations), những ước muốn (desires), những đòi hỏi (wants), những nhu cầu (needs), những ác cảm (aversions), những lôi cuốn (attractions) và nhiều hình thái khác nữa của định hướng lựa chọn. Nói cách khác, giá trị có mặt trong thế giới rộng lớn và đa dạng của hành vi lựa chọn… Tuy nhiên, bất kỳ định nghĩa mô tả nào cũng khó có thể xác định đầy đủ phạm vi và tính đa dạng của những hiện tượng giá trị được thừa nhận”([1])… Có thể áp dụng khái niệm giá trị cho bất cứ lĩnh vực nào (văn hoá, tôn giáo, khoa học, văn học, nghệ thuật,...), bất cứ hiện tượng nào của đời sống con người và do con người tạo ra (đạo đức, lối sống, ứng xử, các mối quan hệ xã hội, nhân sinh, một bức tranh, một tác phẩm,...).
“Giá trị” (Value) có thể được hiểu theo nhiều ngữ cảnh khác nhau. Trong ngữ cảnh chung, giá trị thường được xem là vai trò, ý nghĩa, độ quan trọng của một điều gì đó đối với một cá nhân, một cộng đồng, một xã hội hoặc rộng lớn hơn... Giá trị có thể được đo lường bằng nhiều hình thức khác nhau, từ hình thức trừu tượng (tinh thần) đến hình thức cụ tượng (vật chất).
Trong văn học, khái niệm “giá trị” nhằm chỉ những gì có ý nghĩa, hữu ích mà văn học mang lại cho con người (cái được biểu đạt tức nội dung nhận thức/ phản ánh) và cách thể hiện những gì có ý nghĩa, hữu ích ấy (cái biểu đạt tức nghệ thuật thể hiện). Các giá trị văn học thường bao gồm sức mạnh của thông điệp, sự đẹp đẽ của ngôn từ, khả năng tạo ra sự đồng cảm hoặc suy tư sâu sắc về các hiện tượng của đời sống con người và xã hội. Một tác phẩm văn học có thể được đánh giá dựa trên cách nó truyền đạt và tạo ra các giá trị này cho độc giả. Khái niệm “giá trị” nói chung, “giá trị văn học” nói riêng đều mang tính tương đối, có thể thay đổi theo thời gian và văn hóa tiếp nhận. Tuy nhiên những tác phẩm thực sự là kiệt tác bao giờ cũng có những giá trị bền vững, lâu dài (hoặc là giá trị về nội dung, tư tưởng, hoặc là giá trị về nghệ thuật thể hiện. Dĩ nhiên, đã là kiệt tác, hai bình diện giá trị ấy gắn kết, thống nhất với nhau. Ở đây, không có chuyện “gạo Tám thơm mà cơm nấu sống”). Có thể tiếp cận một tác phẩm văn học lớn theo nhiều góc nhìn khác nhau (góc nhìn nghệ thuật, góc nhìn văn hoá, góc nhìn đạo đức – luân lý, v.v…). Dẫu theo góc nhìn nào, người nghiên cứu cũng phải khảo sát hai bình diện cơ bản của tác phẩm: nội dung nhận thức/ phản ánh (cái được biểu đạt) và nghệ thuật thể hiện (cái biểu đạt).
1.1.1.2. Hai bình diện giá trị của một tác phẩm văn học
Khi nói nhìn Truyện Kiều từ giá trị nghệ thuật có nghĩa là, ở đây, phải nhìn Truyện Kiều với tư cách là một tác phẩm văn học - tức một tác phẩm nghệ thuật ngôn từ; và, giá trị nghệ thuật ở đây được giới hạn là giá trị của các phương thức nghệ thuật thể hiện mà Nguyễn Du đã dùng trong tác phẩm.
Nhìn Truyện Kiều ở giá trị nghệ thuật là nhìn Truyện Kiều từ giá trị của các phương thức mà Nguyễn Du đã vận dụng thành công trong tác phẩm (tức nhìn giá trị của Truyện Kiều ở bình diện nghệ thuật thể hiện/ trong khu biệt với bình diện nội dung, tư tưởng của tác phẩm).
Giá trị của một tác phẩm văn học được thể hiện qua hai bình diện cơ bản mang tính bao quát nhất: Nội dung, tư tưởng và Nghệ thuật thể hiện. Giá trị nghệ thuật của một tác phẩm văn học thường được đánh giá dựa trên các cơ sở, trước hết là ngôn ngữ và nghệ thuật tổ chức ngôn ngữ của tác giả (chủ thể sáng tạo tác phẩm), tiếp đến là hệ thống các phương tiện mà tác giả vận dụng để cấu trúc nên tác phẩm (thể loại, giọng điệu, hệ thống nhân vật, hệ thống sự kiện, tình tiết, bối cảnh không gian thời gian),…
Giá trị của một tác phẩm văn học có thể được đo lường qua khả năng chinh phục, lay thức độc giả, qua ảnh hưởng và tầm ảnh hưởng của nó đến văn hóa, xã hội và có thể là lịch sử. Tầm ảnh hưởng của một tác phẩm có thể được xác định thông qua sự đánh giá của độc giả, qua sức sống bền vững theo thời gian của nó. Một tác phẩm văn học có giá trị lớn bao giờ cũng có sức sống vượt thời gian, có sức hút và ý nghĩa đối với nhiều thế hệ.
Tóm lại, giá trị của một tác phẩm văn học có thể được đo lường qua nhiều khía cạnh… Tuy nhiên, như đã nêu ở trên, có hai bình diện cơ bản để khảo sát, xem xét giá trị của một tác phẩm văn học: Nội dung nhận thức (giá trị nội dung, tư tưởng) và Nghệ thuật thể hiện (giá trị nghệ thuật).
Với đề tài này, chúng tôi tiếp cận Truyện Kiều với tư cách là một tác phẩm văn học – một kiệt tác ngôn từ; khảo sát, nghiên cứu tác phẩm trên bình diện Nghệ thuật thể hiện([2]), đúng như tên gọi của công trình: Giá trị tiêu biểu của Truyện Kiều ở góc độ giá trị nghệ thuật.
1.1.2. Lịch sử tiếp cận Truyện Kiều từ phía phương thức thể hiện và ý thức đi tìm giá trị nghệ thuật của tác phẩm
Lịch sử tiếp nhận, tìm hiểu và nghiên cứu Truyện Kiều đã có hai trăm năm. Với tư cách là một tác phẩm văn học, Truyện Kiều được tiếp nhận, tìm hiểu và nghiên cứu hầu như trên tất cả các phương diện, từ nguồn gốc tích truyện đến những tiếp biến và sáng tạo mới; từ nội dung, tư tưởng đến phương thức thể hiện mới của Nguyễn Du,… Trên cơ sở đó, người ta đi tìm giá trị hoặc ý nghĩa nhiều mặt của Truyện Kiều.
Riêng tiếp cận Truyện Kiều từ phía phương thức thể hiện, từ đó đi tìm và xác định những giá trị tiêu biểu của Truyện Kiều ở góc độ giá trị nghệ thuật, số lượng công trình (bao hàm cả các bài viết) có giá trị khoa học cao vẫn còn rất hạn chế. Ở đây, chúng tôi chỉ nêu và khái quát lịch sử tiếp cận Truyện Kiều từ phía phương thức thể hiện và ý thức đi tìm giá trị nghệ thuật của tác phẩm - tức những vấn đề có liên quan đến công trình này/ Những giá trị tiêu biểu của Truyện Kiều ở góc độ giá trị nghệ thuật). Nhìn chung, có năm hướng cơ bản.
Hướng thứ nhất: Cảm nhận chung về văn chương Truyện Kiều (chữ “văn chương” ở đây được hiểu theo nghĩa là nghệ thuật thể hiện của Nguyễn Du). Hướng tiếp cận này chủ yếu trình bày cảm nhận mang tính khái quát, không gắn hoặc ít gắn với những khảo sát, phân tích, luận giải sâu sát, cụ thể về các phương thức thể hiện của tác phẩm. Có thể kể đến một số bài viết và công trình tiêu biểu như như: “Văn chương và nhân vật trong Truyện Kiều” của Nguyễn Đôn Phục (Tạp chí Nam Phong, Q.10, số 58, 4.1922); “Văn chương truyện Kiều” (Tạp chí Nam Phong số 30.12.1919) của Phạm Quỳnh; Văn chương Truyện Kiều của Nguyễn Bách Khoa (Nxb Thế giới, 1953); Thả một bè lau - Truyện Kiều dưới cái nhìn Thiền quán của Nhất Hạnh (Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2005); v.v…
Trong số những công trình bộc lộ cảm nhận chung về văn chương (với nghĩa là nghệ thuật thể hiện) ở Truyện Kiều, đáng chú ý nhất là “Văn chương Truyện Kiều” của Phạm Quỳnh. Tuy không gọi là giá trị nghệ thuật tiêu biểu nhất nhưng Phạm Quỳnh đã xác định tiếng Việt qua Truyện Kiều góp phần quan trọng tạo nên “quốc hồn”, “quốc tuý” của dân tộc ta. Ông khẳng định: “Văn chương Truyện Kiều quả là một nền văn chương tuyệt bút, (…) muốn phát biểu cho hết những chỗ hay trong Truyện Kiều, không thể sao cho khắp được, vì suốt truyện không một câu nào là đặt non đặt ép, câu nào cũng là lời chải chuốt, ý sâu xa cả”(…); “Phàm văn chương hay là thứ nhất ở lời văn điêu luyện, thứ nhì ở ý tứ thâm trầm (…). Xét trong Truyện Kiều thật là kiêm được cả hai”…; “tiếng Việt Nam ta nhiều người chê là nghèo nàn non nớt, thế mà Truyện Kiều thời rõ là một áng văn chương lão luyện, tưởng có thể sánh với những hạng kiệt tác trong các văn chương khác mà không thẹn vậy (…); “trước Truyện Kiều không có văn nôm gì hay bằng văn Kiều (…), mà sau Truyện Kiều cũng không có văn nào hay bằng văn Kiều”([3])… Trong bài diễn thuyết về Truyện Kiều (1924) cách đây vừa tròn 100 năm, Phạm Quỳnh đã nhận thấy (và cũng là dự báo) vai trò của ngôn ngữ Truyện Kiều đối với tiếng Việt: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn”([4]). Rất xác đáng!
Hướng thứ hai: Nghiên cứu đặc điểm của nghệ thuật Truyện Kiều trên phương diện/ thành tố Ngôn ngữ
Ngôn ngữ Truyện Kiều là thành tố được tìm hiểu nhiều nhất (sau thành tố nhân vật), nhưng ngôn ngữ Truyện Kiều lại được tìm hiểu chủ yếu theo từng yếu tố như từ loại, từ nhiều nghĩa, ngôn ngữ nhân vật,... Có thể kể tên các bài viết và công trình tiêu biểu: “Hư từ trong Truyện Kiều” của Phan Khôi (trong sách Việt ngữ nghiên cứu – Phan Khôi, Nxb Văn nghệ, 1955); “Về ngôn ngữ nhân vật trong Truyện Kiều” của Nguyễn Lộc (Tạp chí Văn học, số 11.1965); “Đi tìm một vài đặc điểm của ngôn ngữ Truyện Kiều” - Đào Thản (Tạp chí Văn học, số 1/1966); “Từ nhiều nghĩa trong Truyện Kiều” - Hoàng Văn Hành (Tạp chí Ngôn ngữ, số 1.1966); “Dòng bác học và dòng bình dân trong ngôn ngữ Truyện Kiều” - Mai Quốc Liên (Tạp chí Văn học, số 3.1966); “Truyện Kiều và hiện tượng từ ký sinh ở vần lưng của thể lục bát” - Nguyễn Phan Cảnh (Thông báo khoa học, T.III, Văn học và ngôn ngữ, 1969); “Ngữ pháp Truyện Kiều” - Hoàng Tuệ (Tạp chí Văn học số 3.1971); “Chử nghĩa Truyện Kiều” - Nguyễn Hữu Sơn (Tạp chí Văn học, số 1.1992); Chữ nghĩa Truyện Kiều - Nguyễn Quảng Tuân (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994); Tìm hiểu từ ngữ Truyện Kiều - Lê Xuân Lít (Nxb Đại học Quốc gia TP. HCM, 2001); v.v…
Không thể không nói đến Từ điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh, công trình đã giúp ích rất nhiều cho các nhà nghiên cứu muốn tìm hiểu, khảo sát Truyện Kiều trên phương diện/ thành tố từ, ngữ. Nhưng đây chỉ là công trình “từ điển” và không phải không có những hạn chế.
Điều chúng tôi quan tâm nhất ở đây là ngôn ngữ Truyện Kiều, xem tác giả các bài viết có xem ngôn ngữ với tư cách là phương tiện nghệ thuật hàng đầu và đóng vai trò như thế nào trong tạo nên giá trị nghệ thuật của Truyện Kiều? Quả thực, ở đây, còn rất nhiều điều phải được tiếp tục bổ sung, làm rõ…
Hướng thứ ba: Nghiên cứu đặc điểm của nghệ thuật Truyện Kiều qua các thành tố Tự sự hoặc Trữ tình trong tác phẩm. Có thể nói đến các công trình tiêu biểu: Nghệ thuật trữ tình của Nguyễn Du trong Truyện Kiều của Đỗ Minh Tuấn (Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội, 1995); “Nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Du trong Truyện Kiều” trong Thế giới nhân vật Truyện Kiều của Phạm Đan Quế (Nxb Thanh Niên, 2005);…
Nghệ thuật tự sự và trữ tình của Nguyễn Du được bàn đến sâu hơn trong hai công trình: Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều của Phan Ngọc (Nxb Khoa học xã hội, 1985) và Thi pháp Truyện Kiều của Trần Đình Sử (Nxb Giáo dục, 2002). Nhưng đây là hai công trình tiếp cận, tìm hiểu, nghiên cứu Truyện Kiều từ tính hệ thống chỉnh thể (bao hàm cả hai phương diện nội dung tư tưởng và nghệ thuật thể hiện), và, ở phía nghệ thuật thể hiện lại hầu như bao hàm hầu hết các phương thức, theo hướng phong cách học và thi pháp học. Đây là hai công trình chuyên sâu có những khảo sát, tìm tòi, phân tích, luận giải có sức thuyết phục về Truyện Kiều trên cả hai phương diện: nội dung, tư tưởng và nghệ thuật thể hiện. Riêng ở phương diện nghệ thuật thể hiện, cả hai công trình Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều của Phan Ngọc và Thi pháp Truyện Kiều của Trần Đình Sử, đều không thấy hiển ngôn xác định đâu là giá trị nghệ thuật tiêu biểu, vô song của Truyện Kiều. Đây là mệnh đề, là xác định của chúng tôi (xin xem phần sau, mục 1.2. Những giá trị nghệ thuật tiêu biểu, vô song của Truyện Kiều).
Có thể thấy, ở tất cả những công trình nêu trên, khi đề cập đến các thành tố tự sự hoặc trữ tình, vấn đề mối quan hệ giữa tự sự và trữ tình trong nghệ thuật thể hiện của Nguyễn Du còn có nhiều khoảng trống, chưa được chú ý khảo sát.
Hướng thứ tư: Nghiên cứu nghệ thuật Truyện Kiều từ thành tố Thể loại. So với các thành tố trên, số lượng công trình khảo sát, nghiên cứu về thể loại của Truyện Kiều ít hơn nhiều, và càng thiếu những công trình mang tính hệ thống, chuyên sâu. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu: Truyện Kiều và thể loại Truyện Nôm của Đặng Thanh Lê (Nxb Khoa học xã hội, 1979); “Bằng trắc lục bát Truyện Kiều” của Lý Toàn Thắng (Tạp chí Ngôn ngữ, số 4.2001);…
Thể loại của Truyện Kiều, dĩ nhiên, cũng đã được bàn đến trong hai công trình tiếp cận Truyện Kiều từ tính hệ thống chỉnh thể theo hướng phong cách học và thi pháp học là Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều của Phan Ngọc và Thi pháp Truyện Kiều của Trần Đình Sử. Vấn đề thể loại của Truyện Kiều ở đây vẫn còn có những bỏ ngỏ, nhất là hiện tượng “kép” – “cộng sinh” thể loại giữa truyện và thơ. Chúng tôi sẽ có những khảo sát, nghiên cứu mới, không “đi lại” những gì mà người đi trước đã thực hiện.
Nhìn lại lịch sử tiếp cận Truyện Kiều từ phía phương thức thể hiện và ý thức đi tìm giá trị nghệ thuật của tác phẩm, nhất là qua các công trình tiêu biểu mà chúng tôi đã nêu ở trên, có thể thấy, phần lớn các công trình đều chỉ ra những đặc điểm của nghệ thuật Truyện Kiều; còn những đặc điểm đó có phải là những giá trị và giá trị đến mức độ nào lại đang là vấn đề “chưa xong điều nghĩ”([5]), nghĩa là việc xác định “giá trị” của các phương thức nghệ thuật thể hiện (nhất là trong tính hệ thống của vấn đề “giá trị nghệ thuật”) trong Truyện Kiều hãy còn là vấn đề phải tiếp tục, đòi hỏi nhiều hơn sự quan tâm và nỗ lực khảo sát, phân tích, luận giải, xác định của các nhà nghiên cứu.
Cũng cần nói thêm, bàn về “giá trị” của Truyện Kiều (người viết có chủ ý dùng từ “giá trị”), đáng chú ý có hai bài viết xoáy vào phạm trù “giá trị”: “Xác định giá trị Truyện Kiều” của Minh Tranh (viết từ 1955)([6]), đặc biệt bài viết “Cái giá bất tử cuả Truyện Kiều Nguyễn Du nằm ở đâu?” của Nguyễn Trung Hiếu (viết năm 1983 trong một chùm bài của ông về Truyện Kiều)([7]). Nhưng, rất tiếc, hai công trình này, nhất là “Cái giá bất tử cuả Truyện Kiều Nguyễn Du nằm ở đâu?” của Nguyễn Trung Hiếu, tác giả chưa có điều kiện triển khai chi tiết, xác định rõ “giá trị nghệ thuật” của Truyện Kiều ở những phương diện cụ thể của phương thức thể hiện như ngôn ngữ, thể loại, các thủ pháp,...
Tìm hiểu, nghiên cứu Truyện Kiều từ phía nghệ thuật thể hiện, từ đó nhằm xác định giá trị nghệ thuật, hơn nữa là những giá trị nghệ thuật tiêu biểu của kiệt tác này, thực ra, đây vẫn là vấn đề mới và không dễ thực hiện chút nào.
Hướng tiếp cận, nghiên cứu mới của chúng tôi là nhìn Truyện Kiều từ giá trị nghệ thuật trong tính hệ thống của các phương thức thể hiện và nhìn các giá trị nghệ thuật của Truyện Kiều trong tính thống nhất chỉnh thể của tác phẩm. Một điểm nữa cũng xin được nói thêm: Chúng tôi không “đi” lại những gì đã được tìm hiểu, nghiên cứu mà cố gắng tìm ra cái mới, nhằm góp phần xác định rõ những giá trị nghệ thuật (nghệ thuật thể hiện), hơn nữa là những giá trị nghệ thuật tiêu biểu của Truyện Kiều, từ đó đề xuất một số giải pháp thiết yếu, cụ thể, mang tính khả thi cao, nhằm bảo tồn và phát huy hữu hiệu giá trị nghệ thuật của Truyện Kiều).
2. Những giá trị tiêu biểu của Truyện Kiều ở góc độ giá trị nghệ thuật
2.1. Giá trị của ngôn ngữ/ tiếng Việt:
2.1.1. Ngôn ngữ Truyện Kiều kết tinh thành tựu và tinh hoa của tiếng Việt, giúp tiếng Việt phát triển theo hướng phong phú, đa năng và chuẩn hoá
Tiếng Việt đến và qua Truyện Kiều là một bước đột phá về sự hoàn thiện và phát triển. Truyện Kiều đã tiếp thu một cách sáng tạo và nâng cao thành tựu của ngôn ngữ/ tiếng Việt từ nhiều nguồn (dân gian, bác học, dân tộc, vay mượn) với cả một quá trình dài trước đó. Không những thế, Truyện Kiều còn cung cấp một hệ tiêu chuẩn cao về ngôn từ, cú pháp, lời văn, các diễn ngôn trong đời sống văn hoá - văn học dân tộc. Cách biểu đạt của Nguyễn Du trở nên là điển mẫu cho ngôn ngữ tiếng Việt về sau. Ông còn sáng tạo thêm nhiều từ ngữ mới và cách sử dụng chúng theo hướng tinh tế, hữu hiệu nhất, mở đường cho ngôn ngữ tiếng Việt phát triển, vững bước đi về phía hiện đại.
Với Từ điển Truyện Kiều, Đào Duy Anh (người soạn) cho biết: “Nội dung sách này thu thập tất cả những từ, thành ngữ và từ tổ được Nguyễn Du dùng trong Truyện Kiều. Nó sẽ giúp chúng ta hiểu được phần nào tiếng Việt Nam ở khoảng nửa đầu thế kỷ XIX về cấu tạo của tiếng Việt Nam hiện đại, đồng thời giúp chúng ta hiểu được những yếu tố nào đã do Nguyễn Du sáng tạo để làm giàu cho ngôn ngữ dân tộc”. Theo ông, Truyện Kiều “đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học hiện đại của nước ta. Với Truyện Kiều của Nguyễn Du, có thể nói rằng ngôn ngữ văn học Việt Nam đã trải qua một cuộc thay đổi về chất và đã tỏ rõ khả năng biểu hiện đầy đủ và sâu sắc của nó”([8]).
Đã có biết bao nhiêu ý kiến dẫu rằng nhiều ý kiến chưa được rút ra bằng những khảo sát cụ thể, nhưng hoàn toàn xác đáng trong cảm nhận về Truyện Kiều của Nguyễn Du: “lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thắm trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột (Mộng Liên Đường Chủ Nhân), “Lục bát có cái gì hay, cụ Nguyễn Tiên Điền đã vớt hết cả rồi” (Nguyễn Khuyến); “trên từ các bậc văn nhân thi sĩ, dưới đến các kẻ thường dân, ai cũng thích đọc, thích ngâm và thuộc được ít nhiều” (Dương Quảng Hàm); “là một tập văn chương... diễn được đủ cả nhân tình thế cổ, tả được cả mọi cảnh trong đời, mà chỗ nào văn chương cũng tao nhã, lời lẽ cũng lý thú..., là một tập văn chương đại trước tác của nước ta vậy” (Trần Trọng Kim); “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn” (Phạm Quỳnh); “Truyện Kiều - quyển sách một ngàn tâm trạng” (Phan Ngọc), “Truyện Kiều nói mãi không cùng” (Trần Đình Sử),...
Trước hết, với Truyện Kiều, Nguyễn Du đã mang đến cho tiếng Việt một khối lượng lớn từ vựng mang tính phổ quát, chuẩn mực.
Hơn bất cứ một tác phẩm nào khác, Truyện Kiều hàm chứa một khối lượng lớn từ vựng([9]) được Nguyễn Du tiếp thu, thanh lọc từ nhiều nguồn, tinh luyện, sáng tạo, đưa hầu như tất cả khối từ này đạt đến độ trong sáng, tinh tế, chuẩn mực, phổ thông, phổ quát.
Truyện Kiều cho thấy Nguyễn Du hầu như không dùng từ địa phương, từ cổ xa lạ, thiếu tinh tế; từ được dùng, khó có thể, và không thể thay thế.
Nói Truyện Kiều của Nguyễn Du hầu như không dùng từ địa phương là hoàn toàn có cơ sở. Nguyễn Du có dùng một số từ, như: “ả” (Bên thì mấy ả mày ngài); “mụ” (Mụ nghe nàng nói hay tình; Mụ càng tô lục, chuốt hồng); “chi” (Người đâu gặp gỡ làm chi; Tài tình chi lắm cho trời đất ghen); “mặt mo” (Mặt mo đã thấy Sở Khanh lẻn vào);… Có người xem đây là từ địa phương Nghệ Tĩnh. Thực ra, những từ này, nếu có thể xem là từ địa phương, giới hạn vùng của nó rộng hơn nhiều (bao hàm cả Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, thậm chí rộng hơn nữa). Điều đáng nói hơn là những từ ấy “đã được dùng ít nhiều phổ biến trên sách báo hoặc trong ca dao, tục ngữ”([10]) và trong cả đời sống văn hoá người Việt nhiều vùng miền.
Truyện Kiều cũng có một số từ cổ, như từ “min” (Thôi đà cướp sống chồng min đi rồi/ câu 964; “min” – từ cổ, “nghĩa cũng như ta, người trên xưng với người dưới với sắc thái là dùng khi không nỡ xưng tao”), từ “vay” (Bụi nào cho đục được mình ấy vay/ câu 3120; “vay” - từ cổ, được dùng như trợ từ ngữ khí, biểu hiện ý cảm thán, khẳng định),… Nhưng những từ cổ này đặt trong ngữ cảnh câu thơ/ đoạn thơ của Truyện Kiều, mọi người đều cảm và hiểu được.
Để có được một ngôn ngữ tiếng Việt có giá trị phổ thông, phổ quát, trong sáng, tinh tế, chuẩn mực, giàu ý nghĩa biểu vật, biểu niệm ấy, trên cơ sở của một vốn văn hóa, vốn sống và trải nghiệm phong phú, Nguyễn Du đã hết sức năng động, linh hoạt, tài hoa trong vận dụng nhiều phương pháp, cách thức tạo từ, ngữ khác nhau (dịch từ Hán sang Việt với tinh thần Việt hóa, vận dụng sáng tạo từ ngữ từ nhiều nguồn khác nhau: từ Hán Việt, điển cố, thi liệu Hán học, ngôn ngữ văn học dân gian, tục ngữ, thành ngữ, “thôn ca”, “tang ma ngữ” (“Thôn ca sơ học tang ma ngữ”); vận dụng linh hoạt và hữu hiệu nhiều phương thức, biện pháp tu từ; triển khai thực thi chính xác và uyển chuyển các dạng thái tự pháp, cú pháp, chương pháp, lời văn, v.v...). Với một tinh thần tự tôn dân tộc và ý thức về tiếng mẹ đẻ sâu sắc, Nguyễn Du quả đã nỗ lực đến mức tối đa trong tiếp thu và nâng cao thành tựu của ngôn ngữ dân tộc đã được chuẩn bị từ nhiều thế kỷ trước, nhất là ở bộ phận văn học Nôm.
Các hệ thống từ loại trong Truyện Kiều, hệ thống nào cũng phong phú, được chọn lọc công phu, được sử dụng một cách vừa chính xác, vừa tinh tế, uyển chuyển. Người đọc có thể kiểm chứng độ chính xác và sự đa dạng, tinh tế, uyển chuyển của bất cứ hệ thống từ loại nào trong Truyện Kiều, từ hệ thống danh từ, đại từ đến hệ thống tính từ, động từ; từ hệ thống thực từ đến hệ thống hư từ, giới từ; từ hệ thống từ đơn đến hệ thống từ ghép, từ láy,...
Các từ, ngữ được dùng bao giờ cũng đúng lúc, đúng chỗ, không thể thay thế. Với động từ, chỉ cần khảo sát một vài từ, chẳng hạn động từ “cậy”, “chịu” trong câu Cậy em em có chịu lời/ Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa khi Kiều trao duyên, “nhờ” Vân nối duyên với Kim Trọng, người khảo sát cũng sẽ thấy được tài năng và sự thấu cảm của Nguyễn Du trong dùng chữ (không dùng chữ “nhờ”, “nhận” mà lại dùng “cậy”, “chịu”. Chữ “cậy” vừa nặng trĩu nỗi lòng, vừa tha thiết hơn trong trường hợp “trao duyên” này (còn nếu dùng chữ “nhờ” thì vừa “nhẹ” hơn, vừa không biểu hiện được độ riết róng, khẩn thiết đến mức tối đa trong ý nguyện và nỗi niềm xót xa của Thuý Kiều). Chữ “chịu” vừa cho thấy Thuý Kiều rất thấu hiểu tình cảm của em, vừa coi em “chịu lời” là đang nhận một sự hy sinh...
Nguyễn Du cũng đã tính toán rất kỹ trong lựa chọn động từ làm từ trung tâm (trong miêu tả hành động của các nhân vật), làm thế nào để chỉ cần một động từ chỉ một hành động nhỏ cũng có thể nêu bật được tính cách nhân vật. Cũng là “ngồi” nhưng các nhân vật “ngồi” khác nhau. Mã Giám Sinh: “Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”; Tú Bà: “Vắt nóc lên giường ngồi ngay”; Hoạn Bà: “Ban ngày sáp thắp hai bên/ Giữa giường thất bảo ngồi trên một bà”; Sở Khanh: “Lặng ngồi lẩm nhẩm gật đầu”,… Cách nghe đàn của các nhân vật cũng khác nhau. Kim Trọng: “Khi tựa gối khi cúi đầu/ Khi vò chín khúc khi chau đôi mày”... Khác hẳn Kim Trọng, Hồ Tôn Hiến “Nghe càng đắm ngắm càng say/ Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình”. Hồ Tôn Hiến nhìn nhiều hơn là nghe, thị giác thay cho thính giác, điều này cho thấy sự trống rỗng trong tâm hồn của hắn. Miêu tả hành động sửa sai của Hồ Tôn Hiến (Hồ sợ ảnh hưởng đến “danh dự” của mình, tìm cách xoá vết nhơ của mình bằng cách gả Kiều cho một viên thổ quan), Nguyễn Du đã để cho Hồ tự lột mặt nạ mình, để cho nó tự bộc lộ bản chất dả dối, phản trắc, dâm ô qua hành động. Kiều Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay là nạn nhân của Hồ Tôn Hiến...
Với danh từ, nhất là loại danh từ chỉ sự vật, hiện tượng, Nguyễn Du đã sáng tạo nên hàng loạt danh từ độc đáo, đóng góp xuất sắc cho sự giàu, đẹp của tiếng Việt. Chẳng hạn để chỉ/ trỏ/ biểu đạt nước mắt, Nguyễn Du sử dụng nhiều từ vừa có nét chung (đồng nghĩa) vừa có nét riêng: “lệ hoa”, “giọt hồng”, “giọt ngọc”, “giọt riêng”, “giọt tương”... (trong Truyện Kiều, có “35 từ thuộc trường thị giác với tần số xuất hiện là 271 lần”)([11]).
Với đại từ, chẳng hạn từ “ai” – đại từ phiếm chỉ (ngôi thứ hai): - Kim Trọng dùng từ “ai” chỉ Kiều: Dù chăng xét tấm tình si/ Thiệt đây mà có ích gì đến ai (câu 339-340); - Kiều nói tới Kim Trọng (chỉ Kim Trọng): Nợ tình chưa trả cho ai/ Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan (câu 709-710). Từ “ai” – đại từ phiếm chỉ (ngôi thứ ba) được Nguyễn Du dùng theo nhiều nghĩa khác nhau. “Ai” - chỉ bản thân mình, Kim Trọng khi thì tự xưng, khiêm tốn: Xương mai cũng đã rũ mòn/ Lần lừa ai biết hãy còn hôm nay; khi thì tự trách mình: Vì ai ngăn đón gió đông/ Thiệt lòng khi ở đau lòng khi đi (câu 793-794)… Có khi chỉ trong một câu, chữ “ai” mang những nghĩa khác nhau: Đừng điều nguyệt nọ hoa kia/ Ngoài ra ai lại tiếc gì với ai (câu 461-462),...
Đại từ nghi vấn “đâu” được dùng trong gần 100 trường hợp, với nhiều nghĩa khác nhau. Diển tả ý không xác định trong câu xác định/ không nghi vấn: Mặt mo đã thấy ở đâu dẫn vào (chỉ Sở Khanh). Dùng trong câu nghi vấn để diễn đạt một nghi vấn: Hỏi rằng này khúc ở đâu? (câu 2573, Hồ Tôn Hiến “mặt sắt” hỏi gốc tích tiếng đàn của Kiều khi hắn bắt Kiều đàn cho hắn nghe). Dùng trong câu vừa có nghĩa nghi vấn, vừa có nghiã phủ định, trong đó nghĩa phủ định chiếm ưu thế: Còn tình đâu nữa mà thù đấy thôi (câu 3156); Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ (câu 1244). Dùng trong câu còn giữ lại sắc thái nghi vấn nhưng mất nghĩa phủ định, thay bằng biểu tỏ sự ngạc nhiên xúc động: Người đâu gặp gỡ làm chi/ Trăm năm biết có duyên gì hay không? (câu 181-182)...
Với hư từ: Có đến hàng loạt hư từ được dùng thực sự hữu hiệu, khó có thể chuyển ngữ thành công. Chẳng hạn các từ “thì”, “mà”:
Trải qua một cuộc bể dâu/ Những điều trong thấy mà đau đớn lòng (câu 3-4)
Chữ “mà” ở đây đảm nhận ít nhất 3 chức năng: miêu tả quan hệ liên tiếp về thời gian; biểu đạt mối quan hệ nhân quả; giữ vai trò nhịp điệu trong câu.
Ở một trường hợp khác (câu 60), chữ “mà” vừa đứng đầu câu, vừa đứng cuối câu, nhưng không gây cảm giác lặp, trái lại, gợi hai trạng thái cảm nhận khác nhau: Rằng sao trong tiết thanh minh/ Mà đây hương khói vắng tanh thế mà (câu 59-60)
Có những trường hợp, cả “mà” và “thì” cùng xuất hiện trong một câu, diễn tả mối quan hệ nhân quả:
Người mà đến thế thì thôi/ Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi (câu 179-180)
V.v...
Nguyễn Du làm giàu vốn từ cho tiếng Việt bằng nhiều phương pháp, cách thức khác nhau, phương pháp, cách thức nào cũng rất hữu hiệu.
Cách thứ nhất: Tổ chức lại từ ngữ vay mượn theo mô hình kết cấu của tiếng Việt. Cũng như bất cứ nhà nho nào thời trung đại, Nguyễn Du cũng phải vay mượn từ ngữ tiếng Hán, vận dụng điển tích, điển cố trong văn học cổ - trung đại Trung Quốc. Sáng tạo của Nguyễn Du ở đây là ông vay mượn từ ngữ nhưng tổ chức lại theo mô hình kết cấu tiếng Việt. Chẳng hạn từ/ điển tích Hán “Hồng diệp xích thằng” trong (câu 459-460): “Nàng rằng: “Hồng diệp xích thằng”/ Một lời cũng đã tiếng rằng Tương tri,… Hoặc đảo kết cấu (Hán) theo kết cấu văn phạm Việt: Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ (câu 640),…
Cách thứ hai: Dịch từ ngữ tiếng Hán sang tiếng Việt vừa chính xác vừa thoát, hết sức uyển chuyển. “Hồng diệp” là lá đỏ, ông dịch thành lá thắm (Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh/ câu 268); “Xích thằng”là tơ đỏ, ông dịch thành chỉ hồng; “Hồng diệp xích thằng” được ông chuyển/ dịch hẳn thành như là từ thuần Việt lá thắm, chỉ hồng: Dù khi lá thắm chỉ hồng (câu 333); v.v…
Có khi dịch thoát, dịch sáng tạo cả hai câu thơ của Thôi Hộ: “Nhân diện bất tri hà xứ khứ/ Đào hoa y cựu tiếu đông phong”, thành: Trước sau nào thấy bóng người/ Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông… Có khi dùng nguyên từ Hán nhưng cách dùng uyển chuyển, tập trung: Hồ Công quyết kế thừa cơ/ Lễ tiền binh hậu khắc cờ tập công...
Cách thứ ba: Việt hoá một số từ Hán: “song thân” (Hán) thành “hai thân” (Việt):
Đến nhà vừa thấy tin nhà,
Hai thân còn dở tiệc hoa chưa về
(câu 429-430)
“Nguyệt cầm” (Hán) thành “cầm trăng” (Việt):
Hiên sau treo sẵn cầm trăng
Vội vàng sinh đã tay nâng ngang mày
(câu 467-468)
V.v...
Tỷ lệ từ Hán trong Truyện Kiều cũng không phải là ít (35%), nhưng do Nguyễn Du biết Việt hoá (ông là người quá tài hoa trong Việt hoá các yếu tố ngoại lai, không chỉ có từ ngữ) khiến câu thơ/ lời thơ trở nên mềm mại, uyển chuyển, không hề gợi cảm giác khúc mắc, nặng nề.
Cách thứ tư: Tiếp thu nguồn từ vựng (nhất là thành ngữ, tục ngữ) từ văn học dân gian khiến tác phẩm càng hết sức gần gũi với nhân dân. Theo thống kê của Vương Trọng, “trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng thành ngữ, châm ngôn khoảng 180 lần. Có những đoạn thơ, Đại thi hào cho thành ngữ, châm ngôn xuất hiện gần như liên tục trong các câu thơ”([12]). Ở đây, chúng tôi chỉ nêu trường hợp Nguyễn Du tiếp thu và vận dụng sáng tạo trường hợp thành ngữ.Khá nhiều thành ngữ từ văn học dân gian được Nguyễn Du đưa vào tác phẩm rất thành công. Ngoài khoảng một trăm thành ngữ được dùng nguyên dạng (như “Bỉ sắc tư phong”, “Nghiêng nước nghiêng thành”, “Trâm gãy bình tan”, “Một hội một thuyền”, “Cửa đóng then cài”, “Gió táp mưa sa”, “Ngậm đắng nuốt cay”, v.v…), nhiều thành ngữ được ông “chế biến” lại rất tài hoa. Chẳng hạn, để miêu tả nỗi đau của Thuý Kiều (sau khi Thuý Kiều bị Sở Khanh lừa đi trốn do giăng bẫy của Tú Bà), bị Tú Bà bắt lại, Thúy Kiều buộc phải ra tiếp khách làng chơi), Nguyễn Du mượn các thành ngữ “Rối như tơ vò”; “Đau như dần”, chế biến thành:
Nỗi lòng đòi đoạn xa gần
Chẳng vò mà rối, chẳng dần mà đau
Hay từ thành ngữ “Trong ấm ngoài êm” được tạo thành: Sao cho trong ấm thì ngoài mới êm, v.v...
Cách thứ năm: Mở rộng nghĩa các từ đã có sẵn bằng cách phát triển các từ đồng nghĩa, sử dụng tính nhiều nghĩa và các hình thức chuyển nghĩa của từ để tạo thành từ mới. Chẳng hạn, các từ “Nguyệt”, “hoa”: Đừng điều nguyệt nọ hoa kia/ Ngoài ra ai lại tiếc gì với ai (câu 461-462). “Nguyệt”, “hoa”: vốn là những từ chỉ những sự vật/ hiện tượng đẹp thuộc về tự nhiên, nhưng “nguyệt”, “hoa” trong câu thơ trên đã được chuyển nghĩa (ẩn dụ) dùng để chỉ việc trai gái “trăng hoa”/ “ăn nằm” với nhau...
Cách thứ sáu: Sáng tạo từ mới. Đây là thử thách lớn nhất của người nghệ sĩ ngôn từ. Sáng tạo từ mới được cộng đồng, xã hội chấp nhận đã khó, sáng tạo từ mới được chấp nhận và có ý nghĩa độc đáo lại càng khó. Nguyễn Du sáng tạo nên một khối lượng không nhỏ từ mới, có ý nghĩa độc đáo bằng nhiều cách. Có khi ông chuyển/ dịch từ Hán sang Việt; có khi phá vỡ những cấu trúc cố định để tạo thành những cấu trúc mới. Có đến hàng loạt những cấu trúc như vậy. Xoay quanh các từ “gió”, “mưa”, “nắng”, “sương”, có: “Gió trúc mưa mai”, “gió giật mây vần”, “gió gác trăng sân”, “gió thảm mưa sầu”, “gió bắt mưa cầm”, “gió kép mưa đơn”, “ngày gió đêm trăng”, “ăn gió nằm mưa”, “dày gió dạn sương”, “nắng giữ mưa gìn”, “lá gió cành chim”,… Xoay quanh từ “hoa”: “hoa thải hương thừa”, “liễu ép hoa nài”, “liễu chán hoa chê”,… Xoay quanh “ong”, “bướm”: “bướm chán ong chường”, “bướm lả ong lơi”,… Và nhiều cấu trúc khác: “tô lục chuốt hồng”, “tiếc lục tham hồng”, “gìn vàng giữ ngọc”, “cười phấn cợt son”, “hồn rụng phách rời”, “cao chạy xa bay”, v.v...
Ngôn ngữ Truyện Kiều không chỉ là sự kết tinh trình độ và sức sống của tiếng Việt đến thời đại Nguyễn Du, mà còn từ đây, mở ra khả năng phát triển của tiếng Việt theo thời gian - nghĩa là tính năng sản của ngôn ngữ Truyện Kiều là vô cùng tận.
Tiếng Việt qua Truyện Kiều của Nguyễn Du hoàn toàn có thể được tách khỏi, thoát khỏi văn cảnh, ngữ cảnh của tác phẩm để đi vào đời sống thường nhật của người Việt với nội dung, ý nghĩa mới theo nhu cầu, tâm trạng, nỗi niềm của từng cá nhân trước nhiều tình huống, hoàn cảnh cụ thể khác nhau. Để “thay lời muốn nói”, “khó nói”, dường như không có cách nào hay hơn, người ta tìm đến Truyện Kiều. Hiện tượng “Vận Kiều”, “Tập Kiều”, “Lẩy Kiều”,... cũng xuất phát từ đây...
2.1.2. Ngôn ngữ Truyện Kiều thuộc loại hình ngôn ngữ nghệ thuật, trong sáng, tinh tế, giàu tính tạo hình và biểu cảm, giàu chất thơ, tính thơ
Cần phải nhận rõ ngôn ngữ Truyện Kiều thuộc loại hình ngôn ngữ nghệ thuật, chuẩn mực, tinh tế, trong sáng, giàu chất thơ, tính thơ([13]), nhưng lại mang đậm hơi thở của đời sống, vừa truyền thống vừa hiện đại. Tiếng Việt đến Nguyễn Du, qua Truyện Kiều đã chứng tỏ khả năng không giới hạn của một thứ ngôn ngữ vi diệu trong biểu đạt mọi trạng thái của “tâm” - “tình” - “cảnh” - “sự”, trong chuyển tải muôn điều muốn nói của con người trước nhiều bối cảnh, tình thế và trạng huống phức tạp khác nhau.
Ngôn từ, từ tất cả các nguồn (đã nêu ở mục 1.2.1.1 ở trên) được Nguyễn Du sử dụng một cách chọn lọc, phục vụ hữu hiệu cho việc dựng người, dựng cảnh, đi sâu miêu tả thế giới nội tâm nhân vật, tạo nên một thế giới nghệ thuật hết sức phong phú, sịnh động.
Các phương pháp và biện pháp tu từ: ẩn dụ, hoán dụ, chuyển nghĩa, so sánh (so sánh “nổi”/ rõ, so sánh ngầm/ ẩn dụ, so sánh phức tạp, so sánh đơn giản)..., tất cả đều được Nguyễn Du vận dụng rất năng động, linh hoạt, điêu luyện. Chẳng hạn, so sánh phức tạp: Người yêu ta xấu với người/ Yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau (câu 3157-3158). Hay: Rường cao rút ngược dây oan/ Dẫu là đá cũng nát gan, lọ người! (câu 593-594).
Ngôn ngữ Truyện Kiều là ngôn ngữ thơ ca chân chính, đích thực, hàm súc, giàu tính tạo hình và biểu cảm, giàu tính nhạc, giàu chất thơ, tính thơ, nhiều khi ý tại ngôn ngoại, lời hữu hạn mà ý vô hạn. Có khi, để biểu đạt sự trong (trong vắt, trong suốt), không cần dùng đến chữ “trong”, nhưng vẫn làm hiện lên cái trong vắt sống động tuyệt vời của trời, của nước:
Có khi, để biểu đạt sự nhẹ nhàng, khẽ khàng (không gây ra tiếng động), không cần dùng đến chữ “nhẹ” hay “khẽ”, nhưng vẫn làm sống dậy được bước đi nhẹ nhàng như không của đôi lứa đang yêu (Thuý Kiều – Kim Trọng):
Vội vàng lá rụng hoa rơi
Chàng về viện sách nàng dời lầu trang
(câu 361-362)
Có ai biểu đạt độ sầu/ buồn một cách tài hoa, tinh tế, độc đáo như Nguyễn Du, “đong”, “lắc” cái trừu tượng bằng cái cụ thể vật chất:
Sầu đong càng lắc càng đầy/Ba thu dồn lại một ngày dài ghê...
Khó có thể tìm thấy trong văn học bức tranh nhân thế với những những âm thanh, đường nét, hình khối, sắc màu, tâm trạng như những bức tranh Thuý Kiều đàn cho các nhân vật nghe ở nhiều tình huống/ bối cảnh khác nhau. Khúc đàn Kiều dành cho Kim Trọng lần đầu là Khúc đàn của tình yêu tự do, mãnh liệt, có đầy đủ âm sắc, lúc trong, lúc đục, lúc trầm, lúc bỗng, lúc khoan, lúc mau,… lay thức người nghe bao nhiêu nỗi niềm buồn vui, xa xót, âu lo:
Trong như tiếng hạc bay qua,
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa
Ngọn đèn khi tỏ khi mờ
Khiến người ngồi đó cũng ngơ ngẩn sầu
Khi tựa gối khi cúi đầu
Khi vò chín khúc khi chau đôi mày…
Và lần thứ hai, sau mười lăm năm lưu lạc với quá nhiều biến động, đau khổ, đổi thay, tiếng đàn của Kiều đã hoàn toàn khác xưa:
Khúc đâu đầm ấm dương hòa
Ấy là hồ điệp hay là Trang Sinh
Khúc đâu êm ái xuân tình
Ấy hồn Thục Đế hay mình đỗ quyên
Trong sao châu rỏ duềnh quyên
Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đông
Lọt tai nghe suốt năm cung
Tiếng nào là chẳng não nùng xôn xao…
Khúc đàn Kiều dành cho Hoạn Thư và Thúc Sinh lại khác. Đấy là khúc đàn của giai điệu cay đắng toát ra từ nỗi đau nghẹn ngào, uất ức của Thuý Kiều:
Bốn dây như khóc như than
Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng
Cùng trong một tiếng tơ đồng
Người ngoài cười nụ người trong khóc thầm…
Khúc đàn Kiều dành cho Hồ Tôn Hiến (sau khi Từ Hải chết, Kiều bị ép hầu đàn) lại hoàn toàn khác nữa. Đấy là tiếng đàn toát ra từ nỗi đau nhỏ máu bởi bi kịch tột cùng của Thúy Kiều:
Một cung gió thảm mưa sầu
Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay...
So sánh tiếng đàn của Thuý Kiều trong Truyện Kiều với tiếng đàn của cô Cầm trong Long thành cầm giả ca (cũng của Nguyễn Du nhưng ở thơ chữ Hán), ta càng thấy được năng lực ngôn ngữ ưu trội của Nguyễn Du trong thẩm âm, tạo âm, tạo từ, dùng từ và hình tượng hoá nó, càng thấy được sự đa dạng trong cái thống nhất của phong cách nghệ thuật tác giả. Có thể thấy ở Long thành cầm giả ca cái hào hoa, cổ kính, thanh lịch, vô giá của Thăng Long với những Trường An, thành quách, hồ Giám, vũ nhạc, ba mươi sáu cung xuân, yến tiệc...; dấu ấn của văn hoá Bắc Hà, Nam Hà, Hồng Lam, Phú Xuân, Trung Hoa...; cơ nghiệp Tây Sơn và bao mối liên hệ của một thời giông bão, một phen thay đổi sơn hà, v.v..., tất cả đều được huy động, châu tuần chung quanh hình tượng trung tâm là cô Cầm với tiếng đàn có một không hai, cuốn hút người nghe, đưa người nghe vào mê hồn trận của những thanh âm đủ gam, cung, sắc điệu, muôn màu([14]):
Tiếng khoan thoảng thông ngàn gió thổi
Tiếng trong như hạc gọi xa xăm
Mạnh như Tiến Phúc sét gầm
Buồn như tiếng Việt, Trang nằm đau rên...
(Hoàng Tạo dịch)
Giá trị của nghệ thuật tổ chức ngôn từ của Nguyễn Du trong Truyện Kiều còn là ở chỗ để lại bài học sáng giá muôn đời cho người nghệ sĩ ngôn từ trong lao động, sáng tạo với từng con chữ.
Về nghệ thuật tổ chức từ ngữ: Với các loại thực từ (đại từ, danh từ, tính từ, động từ,...), trong Truyện Kiều, bao giờ Nguyễn Du cũng dùng đúng chỗ, đắc địa, thì đã đành. Với các loại hư từ (quan hệ từ, giới từ,...), Nguyễn Du càng có biệt tài trong sử dụng, “tổ chức” chúng.
Về nghệ thuật tổ chức câu (cú pháp) của Nguyễn Du trong Truyện Kiều
Về cú pháp câu thơ Truyện Kiều nói riêng, ngôn ngữ Truyện Kiều nói chung, theo hướng phong cách học, Phan Ngọc đã có một công trình nghiên cứu xuất sắc với tên gọi Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều([15]). Về câu thơ Truyện Kiều, Phan Ngọc từ cái nhìn tổng thể về lục bát Nguyễn Du, đi sâu phân tích cấu trúc từng cặp câu, rồi từng câu lục, câu bát; chú ý nhiều đến hiện tượng đối xứng ở câu bát, rồi chỉ ra đặc sắc riêng của câu thơ lục bát Nguyễn Du. Đúng như nhận xét của Trần Đình Sử: “Về câu thơ Truyện Kiều, Phan Ngọc chỉ ra câu thơ lục bát này khác hẳn câu thơ lục bát thế kỉ XVIII trở về trước vì mấy lí do như: vần bằng, nhịp đôi, nhiều đối xứng, chia khổ đa dạng để ca hát nội tâm, đa dạng nội tại về ngắt nhịp. Đối xứng làm cho câu thơ có tính suy nghĩ, tạo sắc thái thơ, câu thơ trang trọng, đĩnh đạc, cân đối, trọn vẹn, biện pháp lặp (tức sóng đôi), cách hiệp vần đúng quy tắc thơ Việt, không bị “lỗi”, tính âm nhạc với sự đa dạng về ngắt nhịp và hiệp vần”([16]). Về ngôn ngữ Truyện Kiều, cũng theo Trần Đình Sử, Phan Ngọc “trước hết nêu tính chất cân đối, tức là thủ pháp đối, gồm đối chọi, đối cân, thích dùng tiếng Việt, dịch Hán ra Việt, biết dùng chữ tục, do dùng từ thuần Việt, từ láy, ông đạt đến chủ nghĩa hiện thực khi miêu tả nội tâm. Ông dành cho từ láy âm số lượng cao và vị trí then chốt nhất. Chương Ngữ pháp Nguyễn Du tác giả Phan Ngọc theo quan niệm ngữ pháp ngữ nghĩa, theo đó “riêng hiện tượng vị ngữ bao giờ cũng có mặt trong câu thơ Nguyễn Du, trái lại chủ ngữ thường vắng mặt, nó thể hiện câu Việt Nam chỉ có một trung tâm là vị ngữ”. Câu thơ Việt không có tương hợp về hình thức mà chỉ có tương hợp về ý nghĩa. Phan Ngọc đã chỉ ra những khác biệt của tiếng Việt trong truyện và tiếng Việt hiện đại như cấp độ hóa, khu biệt hóa chưa cao, nhiều từ ngữ dùng khác từ ngữ hiện đại. Phan Ngọc chỉ ra hai mã ngữ pháp của Nguyễn Du là ngữ pháp trật tự và ngữ pháp đối xứng của câu thơ Kiều. Đặc điểm nổi bật của Phan Ngọc là đã tiến hành thống kê số lượng các hiện tượng ngôn ngữ một cách cụ thể, kĩ lưỡng để tạo sức thuyết phục. Người đi sau khó vượt ông ở điểm này. Điểm lại ba chương dành riêng nghiên cứu ngôn ngữ thơ Truyện Kiều của Phan Ngọc ta thấy ông đã huy động những hiểu biết sâu rộng về văn hóa, văn học Việt Nam, khu vực và thế giới để thực hiện các thao tác so sánh đồng đại và lịch đại, xác lập các số liệu thống kê tần suất cao và các hiện tượng, đã khái quát hàng loạt đặc điểm quan trọng của ngôn ngữ Truyện Kiều. Nếu không phải là nhà ngữ học Phan Ngọc thì người khác khó mà đạt được các kết quả ấy. Có thể coi đây là một thành tựu đột xuất về ngôn ngữ Truyện Kiều mà người sau không dễ đạt tới”([17]).
Ở đây, chúng tôi chỉ xin nói về một số trường hợp cú pháp câu thơ Truyện Kiều còn ít được chú ý, và quan trọng hơn là xác định giá trị nghệ thuật của kiểu cú pháp này.
Trường hợp thứ nhất, là loại câu cảm thán tu từ và nghi vấn tu từ:
Còn chi là cái hồng nhan
Đã xong thân thế còn toan nỗi nào? (câu 3101-3102)
Trường hợp thứ hai là loại câu đảo trang/ nghịch đảo. Có trường hợp, ông đưa tân ngữ lên trước để nhấn mạnh đối tượng:
Bóng hồng nhác thấy nẻo xa
Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai
(câu 161-162)
Có trường hợp lại đưa định ngữ lên trước danh từ như câu nói của Vương ông đối với Mã Giám Sinh:
Nghìn tầm nhờ bóng tùng quân
Tuyết sương che chở cho thân cát đằng
(câu 901-902)
Có trường hợp lại dùng như cấu trúc văn phạm Hán ngữ:
Đoạn trường sổ rút tên ra
Đoạn trường thơ phải đưa mà trả nhau
(câu 2721-2722)
(Nếu theo cấu trúc văn phạm Việt ngữ, phải là: “Sổ đoạn trường rút tên ra/ Thơ đoạn trường phải đưa mà trả nhau”. Dĩ nhiên, Nguyễn Du thừa biết sự khác nhau giữa hai loại văn phạm Hán ngữ và Việt Ngữ, nhưng trường hợp này, ông dùng theo văn phạm Hán ngữ là có dụng ý nghệ thuật, càng tăng tính nghiêm túc, hệ trọng của vấn đề: “Kiều đã thoát kiếp đoạn trường”).
Trường hợp thứ ba là loại câu biểu đạt các mối quan hệ, loại câu này hết sức phong phú trong Truyện Kiều. Nguyễn Du đã sử dụng hầu hết các loại câu ghép biểu đạt các mối quan hệ trong tiếng Việt: Quan hệ nguyên nhân – hệ quả, điều kiện – kết quả; Quan hệ tương phản, tăng tiến, lựa chọn, bổ sung, tiếp nối, đồng thời, giải thích, liệt kê, đối chiếu, nhượng bộ,... Chẳng hạn, câu biểu đạt mối quan hệ nhân quả: Sao cho muôn dặm một nhà/ Cho người thấy mặt là ta cam lòng (câu 2435-2436). Câu biểu đạt mối quan hệ tăng tiến:
Thiếp dù vụng chẳng hay suy
Đã dơ bụng nghĩ lại bia miệng cười (câu 1587-1588)
Câu biểu đạt mối quan hệ liên tiếp:
- Kéo cờ luỹ phát súng thành (câu 2271);
- Trúc tơ nổi trước kiệu vàng đến sau (câu 2268);
- Tờ hoa đã ký cân vàng mới trao (câu 686)
Câu biểu đạt mối quan hệ loại trừ:
Xét trong tội nghiệp Thuý Kiều
Mắc điều tình ái khỏi điều tà dâm (câu 2682)
Trường hợp thứ tư là loại câu nghị luận. Có những đoạn câu thơ dạng nghị luận, lập luận lại rất chặt chẽ, logic, cứ ngỡ như là loại câu dùng trong văn xuôi và cả trong đời sống. Chẳng hạn, đoạn Tam Hợp đạo cô luận về Thuý Kiều
Thuý Kiều sắc sảo khôn ngoan
Vô duyên là phận hồng nhan đã đành
Lại mang lấy một chữ tình
Khư khư mình buộc lấy mình vào trong
Vậy nên những chốn thong dong
Ở không yên ổn, ngồi không vững vàng
Ma đưa lối quỉ dẫn đường /
(câu 2659-2676)
Trường hợp thứ năm là loại câu mang màu sắc hiện đại:
Với nàng thân thích gần xa
Người còn sao bỗng làm ma khóc người
(câu 277-278)
Còn nhìều ân ái với nhau
Cơ duyên nào đã hết đâu vội gì? (câu 2411-2412)
Họa bao giờ có gặp người,
Vì tôi cậy hỏi một lời chung thân (câu 2415-2416)
` (Thúy Kiều muốn nhờ sư Giác Duyên hỏi Tam Hợp đạo cô về cuộc đời về sau của mình)…
Rõ ràng cú pháp câu thơ của Nguyễn Du trong Truyện Kiều là hết sức phong phú, đa dạng, mang màu sắc hiện đại. Ông rất công phu trong chọn lọc, thâu thái những tinh hoa của ngôn ngữ dân tộc, xây dựng thành công những hình thức, những lối nói nghệ thuật nhưng mang đậm hơi thở của đời sống, gần gũi với nhân dân.
Truyện Kiều có đóng góp xuất sắc trong cung cấp những khuôn thước, mẫu hình về một thứ ngôn ngữ sinh động, hữu hiệu, dễ đi vào lòng người, từ khâu đơn vị từ (đủ các từ loại) đến câu (đủ các loại câu) và sự liên kết tuyệt vời giữa chúng. Rất khó tìm thấy phương ngữ/ tiếng địa phương trong Truyện Kiều. Ngôn ngữ Truyện Kiều là một loại ngôn ngữ văn hoá, có sức sống trường tồn...
2.1.3. Ngôn ngữ Truyện Kiều đáp ứng cao nhất mọi yêu cầu của ngôn ngữ thể loại mà tác phẩm sử dụng
Viết Truyện Kiều, Nguyễn Du dùng thể loại “kép” thuần Việt: Truyện (Nôm) – Thơ (lục bát), chính vì thế, ngôn ngữ thể loại ở đây phải vừa đảm bảo yêu cầu của truyện, vừa đảm bảo yêu cầu của thơ. Mọi yêu cầu về ngôn ngữ của hai thể loại, Truyện Kiều đều đáp ứng đến mức tối đa.
Có thể thấy ở đơn vị - cấp độ ngôn ngữ nào (ngôn ngữ tác giả/ người trần thuật/ kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật), Nguyễn Du đều xây dựng đạt trình độ nghệ thuật điển phạm.
Ngôn ngữ tác giả (ở Truyện Kiều, ngôn ngữ tác giả nhìn chung là thống nhất với ngôn ngữ người trần thuật hay người kể chuyện – đều là sản phẩm sáng tạo của tác giả) thể hiện ở phần lời văn độc thoại bộc lộ quan điểm của tác giả về các hiện tượng được miêu tả trong tác phẩm. Người đọc có thể dễ dàng nhận ra ngôn ngữ tác giả ở phần đầu Truyện Kiều (từ câu 1: Trăm năm trong cõi người ta… đến câu 58: Dầu dầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh), ở phần kết thúc truyện (từ câu 3241: Ngẫm hay muôn sự tại trời đến câu 3254 kết thúc tác phẩm: Mua vui cũng được một vài trống canh). Cũng có khi tác giả xuất hiện bất ngờ, bày tỏ lòng xót thương Kiều, như ở câu 1137: Thị da ai cũng là người,… Ngôn ngữ tác giả/ người trần thuật trong Truyện Kiều thực sự phong phú, đa dạng. Lúc thì Nguyễn Du dùng các từ ngữ tả thực sắc sảo, khắc hoạ rõ thần sắc từng nhân vật (Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh,…), lúc thì dùng nhiều từ ngữ tao nhã, quý phái theo nguyên tắc hoán dụ miêu tả vẻ đẹp của Kiều (Làn thu thuỷ nét xuân sơn,…). Ngôn ngữ trần thuật trong Truyện Kiều do đặc trưng thể loại (truyện – thơ) xuất hiện dưới nhiều hình thức trùng điệp, đối xứng, tiểu đối… nên hết sức cô đúc, hàm súc, giàu tính tạo hình và biểu cảm, gây ấn tượng mạnh… Ngôn ngữ tác giả trong Truyện Kiều thể hiện rõ cái nhìn, cá tính, giọng điệu, phong cách Nguyễn Du…
Ngôn ngữ tác giả trong Truyện Kiều, đặc biệt ở phần triết lý, vừa hấp dẫn cuốn hút, vừa chứa đầy bí ẩn, phức tạp, gây nhiều tranh cãi (đây cũng là biệt tài của những phong cách lớn trong tạo những “điểm mù”, những bí ẩn “bên kia” văn bản)… Chẳng hạn khi tác giả bình luận về cuộc báo oán: Cho hay muôn sự tại trời!... Lời bình chứa đựng một triết lý hỗn hợp (trộn lẫn thuyết thiên mệnh của Nho gia, thuyết nhân quả của Đạo Phật) và cũng đầy phức tạp... Tuy nhiên có thể thấy quan niệm mệnh trời, báo ứng ở đây mang một ý nghĩa thông tục, phù hợp với yêu cầu báo oán của dân chúng đông đảo. Trần Đình Sử có cơ sở khi nhận xét: “Nguyễn Du cũng tham gia bình luận trực tiếp trong Truyện Kiều, nhưng đó là một lối bình luận khác hẳn tiểu thuyết Trung Hoa. Ở tiểu Trung Hoa mọi bình luận đều nặng về lý lẽ, lý trí tỉnh táo, sắc bén đậm màu đạo đức quan phương. Ở Truyện Kiều bình luận nặng về cảm xúc, nó gần với lời than, lời lên án, lời ai oán của người cùng đứng trong cuộc. Lời bình luận đó hoà điệu với chất trữ tình của tác phẩm”([18])… Ngôn ngữ tác giả còn được thể hiện rõ ở các bước chuyển cảnh, chuyển đoạn, ở miêu tả thiên nhiên, miêu tả không gian, thời gian, miêu tả nhân vật và các sự vật, hiện tượng,… Tất cả đều đáp ứng yêu cầu của tự sự/ thể loại truyện và yêu cầu của trữ tình/ thể loại thơ; tất cả đều nằm trong mối quan hệ kết nối nhuần nhuyễn giữa trần thuật, kể chuyện và bộc lộ cảm xúc, nỗi lòng… (Xin xem thêm ở ở mục 1.2.2. Giá trị nghệ thuật của thể loại thuần Việt từ Truyện Kiều) và 1.2.3. Giá trị của nghệ thuật tự sự - trữ tình gắn với phân tích tâm lý nhân vật trong Truyện Kiều của Nguyễn Du)
Ngôn ngữ nhân vật trong Truyện Kiều (dưới hai dạng độc thoại và đối thoại) được tính cách hoá, đã thoát ra khỏi ngôn ngữ riêng của tác giả. Mỗi nhân vật có một ngôn ngữ riêng. Cùng một nhân vật mang một bản chất nhưng trong từng hoàn cảnh khác nhau, nhân vật lại có những phát ngôn khác nhau… (chẳng hạn, ngôn ngữ của Tú Bà, lúc mụ đánh mắng Thuý Kiều đầy đay nghiến, tàn độc; lúc Kiều toan quyên sinh, mụ lại ngon ngọt dỗ dành Kiều)… Ngôn ngữ của Thuý Kiều cũng thay đổi theo thời gian và biến cố nhưng vẫn luôn luôn tế nhị (trong đối thoại).
Ngôn ngữ độc thoại của nhân vật trong Truyện Kiều thực sự là một bước phát triển “nhảy vọt” trong lịch sử văn học dân tộc. Trần Đình Sử đã có một số thống kê cụ thể về “độc thoại nội tâm” trong Truyện Kiều: “Với cách hiểu độc thoại nội tâm rộng (bao gồm cả lời trực tiếp, yếu tố dòng ý thức và lời độc thoại nội tâm “trực tiếp, tự do”) thì trong Truyện Kiều có khoảng 50 lần độc thoại nội tâm ngắn, dài, gồm khoảng 400 câu thơ, chiếm tỷ lệ 12,5% lời văn Truyện Kiều, tức là trên 1/10 văn bản, một tỷ lệ không nhỏ. Nếu cộng thêm chừng 190 lần đối thoại và độc thoại, với khoảng 1189 câu và 60 dòng bình luận trực tiếp của người kể, tổng số lời phát ngôn lên đến 1640 chiếm hơn một nửa 3254 câu của toàn truyện. Điều này làm cho Truyện Kiều trở thành một thế giới tiếng nói mới mẻ đặc biệt”([19]). Thực ra dạng ngôn ngữ này đã từng xuất hiện trong thể ngâm (Chinh phụ ngâm – nguyên tác bằng chữ Hán của Đặng Trần Côn, ra đời khoảng 1741; bản dịch ra Nôm, thể song thất lục bát của Đoàn Thị Điểm). Nguyễn Du đã biết tiếp thu, kế thừa những thành tựu của thể ngâm trong đó có ngôn ngữ độc thoại, nâng cao giá trị và dùng thủ pháp này cho cả hai loại nhân vật phản diện và chính diện.
Thuý Kiều là nhân vật phải chịu tấn bi kịch đau đớn nặng nề, dai dẳng, đồng thời là nhân vật có nhiều tâm sự khó nói nhất. Chính vì thế, Nguyễn Du để cho Kiều là nhân vật độc thoại nhiều nhất (khi suy nghĩ về Đạm Tiên: “Người mà đến thế thì thôi”…; suy nghĩ về Kim Trọng “Người đâu gặp gỡ làm chi”…; trong liên hệ với Thuý Vân khi nghĩ về mối tình của mình phải “cậy”/ nhờ em…; khi Kiều đứng trước nhiều tình huống bi kịch khác nhau: lúc quyết quyên sinh tại nhà Tú Bà, lúc chuẩn bị nhảy xuống sông Tiền Đường)…
Hoạn Thư là nhân vật “sâu sắc nước đời”, phải dùng độc thoại mới bộc lộ được hết đặc điểm tính cách và bản chất của Hoạn Thư. Nguyễn Du để cho Hoạn Thư độc thoại (thực ra là nói với mẹ về việc mình sẽ trừng trị Kiều nhưng như là độc thoại). Hoạn Thư như nghiến răng lại mà nói, giọng điệu cũng như lời lẽ với nhiều từ lặp lại (“làm cho”, “làm cho”, “trước cho”, “sau cho”) bộc lộ niềm sung sướng trào dâng khi được hành hạ, đày đoạ Kiều:
Làm cho cho mệt cho mê
Làm cho đau đớn ê chề cho coi
Trước cho bõ ghét những người
Sau cho để một trò cười về sau...
Tạo ngôn ngữ đối thoại cũng là một thử thách lớn cho nhà văn. Nguyễn Du để cho Kiều đối thoại trong nhiều hoàn cảnh khác nhau với nhiều đối tượng khác nhau: với Kim Trọng, với Thuý Vân; với Mã Giám Sinh, với Tú Bà, với Sở Khanh,… Ngôn ngữ đối thoại ấy, đặc biệt được thể hiện rõ trong màn báo ân báo oán. Đây là đoạn tươi sáng nhất trong cuộc đời Kiều. Và đây cũng là ngữ cảnh thể hiện rõ tư tưởng cũng như nghệ thuật tài hoa của Nguyễn Du.
Trước khi báo ân, báo oán, Kiều không muốn kể nhiều về chặng đường lưu lạc đau khổ 15 năm của mình. Nàng nhỏ nhẹ với Từ Hải: “Chút còn ân oán đôi đường chưa xong”…
Trong cảnh báo ân, với Thúc Sinh, Kiều vẫn nói nhẹ nhàng, nhấn mạnh vào cái nghĩa: “nghĩa trọng nghìn non” của Thúc Sinh. Kiều hỏi Thúc Sinh: “Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không?”. Nàng tự xưng mình là “người cũ”. Tình cảm của Kiều ở đây được bộc lộ một cách kín đáo, phải nói thế nào để không xúc phạm Từ Hải. Nguyễn Du đã vượt được cái khó này. Khi nói “người cũ” hay “cố nhân”, Kiều gợi ra bao nhiêu kỷ niệm với Thúc Sinh (nhưng đối với Từ Hải, nghe Kiều nói với Thúc là “người cũ” hay “cố nhân”, đấy là chuyện bình thường). Đưa lễ hậu cho Thúc Sinh, nàng nói “Tạ lòng…” với thái độ trân trọng, khiêm nhường. Với Giác Duyên và Quản gia, Kiều xưng danh “Hoa Nô kia với Trạc Tuyền cũng tôi”. Có nói như vậy, Quản gia và Giác Duyên mới hiểu được Kiều là ai, và để nhắc lại quá khứ đau khổ của Kiều/ đối lập với bây giờ (hiện tại), càng biết công ơn của Quản gia và Giác Duyên: Non vàng chưa dễ đền bồi tấm thương… Kiều trọng nghĩa hơn vàng, băn khoăn vẫn chưa xứng với ơn của Giác Duyên, Quản gia. Kiều coi trọng công ơn của họ vì trong xã hội Kiều sống, những người giúp Kiều quá hiếm hoi. Coi trọng nhân nghĩa, phẩm chất đó làm cho Kiều gần gũi với nhân dân và càng cho thấy tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du. Tác giả còn chú ý đến những phản ứng tâm lý của những người được trả ơn (Thúc Sinh trông mặt bấy giờ/ Mồ hôi chàng đã như mưa ướt đầm), tô đậm thêm tác dụng của việc báo ân và sự thay đổi có tính chất đột biến trong cuộc đời Thuý Kiều. Kiều ghi nhớ sâu sắc mối ân tình nhưng cũng không quên những kẻ hại mình.
Kiều có nhu cầu trực tiếp ra tay báo oán, muốn những người quen thân với mình chứng kiến cảnh báo oán: “xin hãy rốn ngồi”/ xem cho rõ mặt biết tôi báo thù”. Trong màn báo oán, ngôn ngữ đối thoại của Kiều cũng thật xác đáng và độc đáo. Đối với Hoạn Thư, Kiều dùng hàng loạt thành ngữ: “phen này kẻ cắp bà già gặp nhau”, “Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa”. Cái nghĩa ở đây mang màu sắc phản ngữ, tính chất mỉa mai (khác hẳn “nghĩa” trong “nghĩa trọng nghìn non”). “Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa”, “mưu sâu” – “nghĩa sâu”: sẽ trả lại một cách xứng đáng.
Trong cuộc đời Kiều, Hoạn Thư là thủ phạm chính trước Hồ Tôn Hiến. Trật tự ở đây làm nổi bật cuộc báo oán:
Dưới cờ gươm tuốt nắp ra
Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư
Hoạn Thư là người đã dày vò Kiều nhiều nhất cả về tinh thần lẫn thân thể, nhất là mặt tinh thần. Về tính cách, Hoạn Thư là hiểm, độc. Kiều phủ đầu bằng một lời chào: “Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây”, nghĩa là đánh một ngón đòn tinh thần áp đảo Hoạn Thư. Nay, Hoạn Thư là một kẻ tội phạm, Kiều là quan toà xử tội. Cách gọi đó làm cho Hoạn Thư càng thấm thía tội lỗi của mình. Kiều vạch mặt Hoạn Thư:
“Đàn bà dễ có mấy tay
Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan?
Dễ dàng là thói hồng nhan
Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều”
Nguyễn Du rất tinh thế khi để cho Kiều nêu “Đàn bà”, và triết lý “Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều” - thực chất là một triết lý dân gian, ai cũng thông hiểu. Sức nặng lời buộc tội của Kiều đối với Hoạn Thư càng lớn hơn nữa ở thái độ đay nghiến của Kiều: “mấy tay”, “mấy mặt”, “mấy gan”. Kiều vốn là người dịu dàng tế nhị,… Cuộc đời với nhiều nếm trải đã làm cho nàng trở nên dày dạn, mạnh mẽ hơn. Sự thay đổi trong lời nói cũng là sự thay đổi trong tính cách của Thuý Kiều…
Sức sống của Truyện Kiều, khả năng vi diệu và tiềm năng còn giàu có ấy của Tiếng Việt qua Truyện Kiều, nếu không được chuyển tải bằng hai thể loại thuần Việt “cộng sinh”: truyện Nôm và lục bát/ truyện Nôm - lục bát, chắc chắn khó có thể đạt được như vậy.
1.2.2. Giá trị nghệ thuật của thể loại thuần Việt từ Truyện Kiều
2.2.2.1. Vai trò, chức năng, nội dung và thi pháp của thể loại văn học
Thể loại văn học giữ vai trò quan trọng, cơ bản và hàng đầu trong đánh dấu sự vận động, tiến triển của văn học. Đây cũng là “một trong những vấn đề chủ yếu cả của lịch sử văn học lẫn của phê bình văn học, đồng thời là một vấn đề xen kẽ đối với cả hai bộ môn nghiên cứu văn học”([20]). Tìm hiểu, nghiên cứu một thể loại văn học, có ba phương diện cơ bản đòi hỏi người nghiên cứu phải quan tâm khảo sát: chức năng, nội dung và thi pháp thể loại. Khái niệm chức năng (ở đây) nhằm chỉ công dụng và vai trò của thể loại trong việc chuyển tải các nội dung biểu hiện. Khái niệm nội dung nhằm chỉ cái được biểu đạt mà thể loại chuyển tải. Khái niệm thi pháp thể loại chỉ cách tổ chức, triển khai các công đoạn, thủ pháp của thể loại nhằm thực thi các chức năng và nội dung mà thể loại đảm nhận. Nội dung gắn với chức năng, tương ứng với chức năng của thể loại (tuy nhiên các nội dung cụ thể luôn đa dạng, phong phú, một chức năng có thể thực hiện chuyển tải nhiều nội dung cụ thể khác nhau). Thực ra các thể loại văn học/ văn chương thẩm mỹ, khó có một thể loại nào độc quyền về chức năng này hay chức năng kia (tự sự hay trữ tình, tụng ca hay phê phán, cổ vũ hay trào lộng, v.v...). Song, mỗi thể loại có một ưu thế, đặc thù riêng trong đảm nhận một số chức năng nhất định. Khả năng mở rộng chức năng (hoặc ngược lại, giảm xuống hay bị thay thế) của bất cứ một thể loại nào còn phụ thuộc vào lịch sử và yêu cầu của thực tiễn qua vai trò của chủ thể sáng tạo.
Một thể loại cho dù mới ra đời, bao giờ cũng bộc lộ vai trò và công dụng của nó, có thể là hữu hiệu hoặc không hữu hiệu. Người viết có thể tự giác hoặc không tự giác trong lựa chọn thể loại, nhưng tính khách quan của vai trò chức năng trong biểu đạt các nội dung của thể loại bao giờ cũng tự nó bộc lộ. Khi đã trải qua nhiều thử nghiệm, ưu thế riêng của từng thể loại cụ thể trong thực hiện các chức năng và chuyển tải các nội dung càng được khẳng định và mặc định.
1.2.2.2. Thể loại Truyện Kiều và những đóng góp của Nguyễn Du cho lịch sử văn học dân tộc
Việc lựa chọn thể loại “kép” thuần Việt/ dân tộc/ bản địa (Truyện Nôm - lục bát) cho Truyện Kiều của Nguyễn Du vừa là cách tạo “kênh” tiếp nhận tốt nhất cho người đọc, vừa là biểu hiện của lòng tự tôn và ý thức bản sắc dân tộc một cách sâu sắc (Chú ý: ở bộ phận sáng tác bằng chữ Nôm/ tiếng Việt, Nguyễn Du không hề dùng một thể loại ngoại nhập/ vay mượn nào). Nguyễn Du là người nỗ lực đến mức tối đa trong việc giữ gìn và kiến tạo bản sắc dân tộc.
Cùng với ngôn ngữ và gắn với ngôn ngữ (tiếng Việt), Truyện Kiều của Nguyễn Du sử dụng hai thể loại thuần việt: truyện Nôm và lục bát, tạo thành thể loại “kép” thuần Việt (hiện tượng “cộng sinh” thể loại): truyện Nôm - lục bát. Và, Truyện Kiều là đỉnh cao của thể loại “kép” thuần Việt độc đáo này; hai thể loại (truyện Nôm và thơ lục bát) cùng “cộng sinh” hỗ trợ cho nhau, góp phần quan trọng tạo nên kiệt tác vô song Truyện Kiều.
Truyện Kiều là truyện thơ, hơn thế nữa, có thể gọi đây là một cuốn tiểu thuyết bằng thơ. Thể loại đòi hỏi tác phẩm phải đảm bảo cả yêu cầu của truyện (truyện Nôm) và yêu cầu của thơ (lục bát). Cả hai yêu cầu ấy đều được Nguyễn Du đáp ứng một cách xuất sắc. Truyện Kiều – thành tựu đỉnh cao của thể loại “kép” thuần Việt (truyện Nôm – lục bát). Với tư cách là một thể loại “kép” thuần Việt của văn chương thẩm mỹ, phải đến Truyện Kiều của Nguyễn Du, Truyện Nôm – Lục bát mới đạt đến trình độ điển phạm, chuẩn mực trên cả ba phương diện: chức năng, nội dung và thi pháp thể loại.
Với thể loại thơ (lục bát), Truyện Kiều càng có những đóng góp vô song.
Lục bát - một thể thơ cách luật thuần túy của thơ tiếng Việt; một mặt, nó mang nặng tính “bảo thủ” (do cách luật), nhưng mặt khác, lại mang tính khả biến rất cao nếu người sử dụng nó biết cách tân, “làm mới”, sáng tạo (dĩ nhiên phải là người thực tài). Lục bát là thể loại đa năng, có thể đảm nhận chức năng tự sự, kể chuyện, miêu thuật hay trữ tình, giải bày, bộc lộ tâm trạng; có thể đảm nhận chức năng tụng ca, chúc mừng hay trào lộng, phê phán; có thể đảm nhận chức năng động viên, cổ vũ hay châm biếm, phủ định; có thể đảm nhận chức năng thông báo hay thư giãn; có thể đảm nhận chức năng của nhiều thể loại khác nhau (thơ, truyện, ký, kịch, văn bản thông tin), v.v... Tóm lại, trước bất cứ một yêu cầu nào của đời sống, lục bát cũng có khả năng đáp ứng. Khả năng hàm chứa, chuyển tải các nội dung của lục bát là không giới hạn, từ những nội dung có ý nghĩa xã hội cao cả, trọng đại đến những nội dung nhỏ bé, bình thường, thậm chí là tầm thường, vô bổ. Chính vì tính đa năng, đa dụng như vậy mà lục bát có thể tồn tại mãi mãi. Tuy nhiên, thể loại bao giờ cũng tồn tại, sống qua/ bằng những tác phẩm cụ thể. Một tác phẩm văn học bao giờ cũng thuộc về một thể loại nhất định. Với Truyện Kiều, Nguyễn Du đã đưa thể loại lục bát đạt trình độ điển phạm ở mức tột đỉnh.
Căn cứ vào tác phẩm hiện còn, thấy lục bát xuất hiện sớm nhất là trong tác phẩm Nghĩ hộ tám giáp giải thưởng hát ả đào (lục bát phải phối xen với các thể khác: ngũ ngôn, thất ngôn, song thất lục bát) của Lê Đức Mao (khoảng trước 1554). Bài hát chầu cửa đình này dùng cho ả đào hát chúc mừng hội tế xuân cầu phúc, cầu phúc cho vua, cho dân làng... Về thi pháp thể loại, đây chưa phải là một sáng tác thuần lục bát; ở đây,)... Ở chặng khởi đầu (tạm coi là thế kỷ XV), lục bát cùng tham gia với nhiều thể khác, và cũng mới chỉ đảm nhận chức năng tụng ca, hát chúc với những nội dung nhẹ nhàng, dung dị([21]).
Sang thế kỷ XVI, XVII, lục bát ngoài việc tiếp tục chức năng tụng ca, có thêm chức năng tỏ chí với những nội dung cụ thể mới hơn. Đào Duy Từ (1572 - 1634) với Ngọa Long Cương vãn (gồm 136 câu lục bát, ca ngợi thiên nhiên, ca ngợi cuộc sống nhàn dật, bộc lộ tâm sự “đợi thời” hành đạo) và Tư dung vãn (236 câu lục bát, ca ngợi vẻ đẹp của biển Tư Dung - Thuận Hóa). Lục bát đến đây đã tương đối ổn định về cả cấu trúc, luật và vận.
Sau chức năng hát chúc, tụng ca, tỏ chí, lục bát có thêm chức năng và nội dung đặc thù: diễn ca lịch sử với hàng loạt tác phẩm: Việt sử diễn âm (chưa rõ tác giả) gồm 2278 câu lục bát (có xen một số câu thất ngôn ở phần cuối), diễn ca lịch sử Việt Nam từ thời sơ thủy đến thời nhà Mạc; Thiên Nam ngữ lục (khuyết danh), 8136 câu (có xen 31 bài thơ chữ Hán và hai bài thơ chữ Nôm thể thất ngôn bát cú), diễn ca lịch sử Việt Nam từ thời Hồng Bàng đến hết triều Lê; Đại Nam quốc sử diễn ca (1870) được coi là của Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái, gồm 2054 câu lục bát… Có thể nói như Nguyễn Quang Hồng, rằng: “đây là lần đầu tiên thể thơ lục bát được thử thách trong một tác phẩm thi ca trường thiên, chứng minh cho khả năng biểu đạt vô tận của thể thơ, chuẩn bị cho nó tiến tới hoàn thiện thêm trong hàng loạt truyện thơ Nôm trường thiên ở những thế kỷ sau”([22]). Cũng từ thế kỷ XVII, bên cạnh lục bát, chức năng diễn ca lịch sử (hoặc vịnh sử) còn được trao cho thể song thất lục bát ở tác phẩm Thiên Nam minh giám, gồm 938 câu, xuất hiện vào khoảng 1624 - 1657, của tác giả là “một phụ nữ trong tôn thất họ Trịnh”([23]).
Sang thế kỷ XVIII - XIX, lục bát là hình thức thể tài chủ yếu của truyện Nôm với hơn 100 tác phẩm.
Khoảng giữa thế kỷ XVIII (năm 1761 ?), xuất hiện tác phẩm Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa([24]). Có thể xem đây là bộ sách từ điển Hán - Việt xuất hiện vào loại sớm nhất. Ngoài 2 bài tựa (bài đầu bằng chữ Nôm, bài sau bằng văn xuôi chữ Hán) và mục lục, phần chính văn gồm gần 3000 câu lục bát. Lục bát ở Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa vận, luật cũng đã khá hoàn chỉnh; mang một chức năng mới có tính “chuyên biệt”: chức năng “từ điển” với những thao tác giải thích, diễn giải thuộc lĩnh vực trước thuật. Điều nảy cho thấy khả năng vô tận của lục bát trong thực thi các chức năng, chuyển tải các nội dung, kể cả các nội dung trước thuật phức tạp.
Tiếp cận Truyện Kiều từ góc nhìn thể loại, hơn nữa là từ giá trị của thể loại, số công trình chuyên sâu quá ít, đã thế lại thiên về một thể loại, hoặc là lục bát trong Truyện Kiều, hoặc là Truyện Kiều với thể loại truyện Nôm (tiêu biểu như Đặng Thanh Lê với Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm)([25]).
Điều quan trọng và mới mẻ mà chúng tôi muốn nhấn mạnh ở đây là với Truyện Kiều, nhờ lợi thế của sự “cộng sinh” hai thể loại: truyện (truyện Nôm) và thơ (lục bát), Nguyễn Du đã mang lại cho thể lục bát nhiều chức năng và nội dung mới, gắn với đó là thi pháp mới. Lục bát với tiếng Việt ở Truyện Kiều không chỉ hoàn thành xuất sắc vai trò tự sự, kể chuyện, mà còn tỏ rõ vai trò vượt trội trong trữ tình, bộc lộ tâm trạng; trong phân tích, luận giải nhiều nội dung phức tạp của thế giới nội tâm con người cũng như thế giới ngoại giới.
Qua Truyện Kiều, lục bát cho thấy vai trò của nó trong đảm nhận chức năng và nội dung của nhiều thể loại khác nhau (thơ, truyện/ tiểu thuyết, kịch, v.v...). Không thể không thấy sự kết tinh và nâng cao thành tựu của nhiều thể loại văn học truyền thống kể cả các thể loại ngoại nhập và nội sinh ở Truyện Kiều. Tất nhiên, lục bát hay bất cứ thể loại nào cũng vậy, đạt đến trình độ nghệ thuật nào còn do tài năng của người sử dụng nó. Thể loại văn học là “siêu cá thể” nhưng hoàn toàn mang đậm dấu ấn cá nhân. Với Nguyễn Du, lục bát đã vượt lên xa khỏi vai trò “kể vè”, “diễn ca”, tự sự, trữ tình, miêu thuật, trước thuật,… trước đó. Chất thơ, tính thơ của thể loại được khai thác, thể hiện một cách hữu hiệu, tuyệt mỹ...
Chức năng và nội dung thể loại của lục bát Truyện Kiều đã thực sự da dạng, phong phú, mới mẻ, hàm chứa nhiều giá trị xuyên thời đại... Tương ứng với những đặc sắc vượt trội ấy trên các phương diện chức năng và nội dung thể loại, có thể thấy gì ở thi pháp lục bát Truyện Kiều?
Về thi pháp thể loại (lục bát), trước hết, Truyện Kiều đã hoàn thiện và khẳng định, hơn thế nữa là “mặc định” mô hình chuẩn của cấu trúc lục bát. Mô hình chuẩn, lý tưởng của lục bát (không nói đến những trường hợp biến thức, biến thể) đòi hỏi phải đảm bảo chuẩn mực bốn yêu cầu cơ bản. Thứ nhất, phải đúng như tên gọi của nó do đặc trưng của ngôn ngữ tiếng Việt (đơn tiết, tuyến tính, có thanh điệu): lục - bát (6/8). Đơn vị cơ bản của lục bát là một cặp câu (hai câu) chiếm 2 dòng thơ, câu lục (trên): 6 tiếng/ âm tiết; câu bát (dưới): 8 tiếng/ âm tiết. Số cặp câu trong bài thơ là không hạn định. Thứ hai, về vần, lục bát dùng cả vần chân và vần lưng. Câu lục thả/ gieo vần chân (thanh bằng) ở tiếng thứ 6; câu bát bắt/ hiệp vần lưng (thanh bằng) ở tiếng thứ 6, tiếng thứ tám tiếp tục thả vần chân (thanh bằng) để cho câu lục tiếp theo bắt vần ở tiếng thứ 6. Cứ thế, tiếp tục cho đến khi kết thúc tác phẩm. Thứ ba, về luật. Yêu cầu về luật của lục bát là điều thú vị, đáng chú ý nhất. Các tiếng thứ 4 của câu lục và câu bát đều phải là thanh trắc (các tiếng có thanh điệu: sắc, nặng, hỏi, ngã); các tiếng thứ 2, thứ 6 (câu lục), 2, 6, 8 (câu bát): thanh bằng (thanh không hoặc thanh huyền). Riêng tiếng thứ 6 và tiếng thứ 8 của câu bát tuy cùng đều thanh bằng nhưng phải khác nhau về âm vực: nếu tiếng thứ 6 là thanh huyền (“tình”) thì tiếng thứ 8 phải là thanh không (“tang”); và ngược lại: nếu tiếng thứ 6 là thanh không (“tang”) thì tiếng thứ 8 phải là thanh huyền (“tình”). Các tiếng ở vị trí số lẻ: 1, 3, 5 (câu lục), 1, 3, 5, 7 (câu bát) thanh bằng hay thanh trắc, không quan trọng. Thứ tư, về nhịp. Nhịp của lục bát hết sức uyển chuyển, có thể dùng nhịp lẻ, nhưng cơ bản vẫn là nhịp chẵn (2/2/2; 2/2/2/2). Chính vì cơ bản dùng nhịp chẵn nên nhịp của lục bát có thể gọi là nhịp “đưa nôi”/ ru đưa, dễ đưa người nghe vào giấc ngủ, giấc mơ. Dường như không có người mẹ nào mà không ru con bằng lục bát, đặc biệt là Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Truyện Kiều của Nguyễn Du đáp ứng mô hình chuẩn (vừa nêu trên đây) của lục bát đến mức tối đa. Trong văn học Việt Nam, không có tác phẩm lục bát trường thiên nào (với dung lượng hàng nghìn câu) đáp ứng yêu cầu theo mô hình chuẩn của lục bát ở tất cả các phương diện như Truyện Kiều. Tuy nhiên, trong Truyện Kiều, có không ít những trường hợp nghịch chuẩn. Nguyễn Du có ý thức về những “lỗi” nghệ thuật này không? Trong 3254 câu lục bát Truyện Kiều, có 29 câu lục nghịch chuẩn về luật (bằng, trắc)/ (Tất cả các câu bát đều đúng mô hình chuẩn). Trong đó có 23 trường hợp nghịch chuẩn ở tiếng thứ 2 và 10 trường hợp nghịch chuẩn ở tiếng thứ 4 (xin xem bảng dưới đây):
STTTT số câu Truyện KiềuCác tiếng nghịch chuẩn (tiếng thứ 2 và tiếng thứ 4)
trong 29 câu lục của Truyện KiềuGhi chú
123456117Maicốtcáchtuyếttinhthần 283ĐauđớnthayphậnđànBà 3149Nềnphúhậubậctàidanh, 4163NgườiquốcsắckẻthiênTài 5393MặtnhìnmặtCàngthêmTươi 6487KhitựagốiKhicúi đầu 7577NgườináchthướckẻtayĐao 8583ĐồtếnhuyễncủariêngTây 9601DuyênhộingộđứccùLao 10837NướcvỏlựuMáumàoGà 11945TinnhạnvẩnLáthưBài 121213KhikhóehạnhKhinétNgài 131233KhitỉnhrượuLúctànCanh 141295KhigiógácKhiTrăngSân 151297KhihươngsớmKhi tràTrưa 161749KhichèchénKhithuốc Thang 171819Càngtrôngmặtcàng ngẩn Ngơ 181861SaochẳngbiếtÝtứgì? 191915CócổthụCósơnhồ 202005ẤymớiganấymớiTài 212291KhiVôTíchKhiLâmTri 222305MụquảngiaVãiGiácDuyên 232667HếtnạnnọđếnnạnKia 242685Hại mộtngườicứumuônngười 252829NgườimộtnơihỏimộtNơi 262841NgườiyểuđiệukẻvănChương 273013Tưởng bâygiờLàbaogiờ 283189ThêmnếngiánốihươngBình 293223KhichénrượuKhicuộccờ Nguyễn Du có ý thức được tất cả những trường hợp nghịch chuẩn, và tất cả những trường hợp nghịch chuẩn ấy có ảnh hưởng như thế nào đến tính nhạc, tính thơ cũng như sức hấp dẫn của hình tượng ngôn từ? Trước hết, hoàn toàn có cơ sở để khẳng định Nguyễn Du không những có ý thức mà ông còn có dụng ý nghệ thuật rõ ràng khi tạo ra những “lỗi” nghịch chuẩn ấy. Tất cả những trường hợp nghịch chuẩn đều được ông “khắc phục” bằng cách tạo ra hai vế cân đối 3/3. Nhịp ngắt 3/3 (Chẳng hạn: Mai cốt cách/ tuyết tinh thần, hay Khi chén rượu/ khi cuộc cờ) khiến cho câu thơ về nội dung thông báo càng rõ, càng thấm; về hiệu ứng thẩm mỹ, càng tạo tính trọn vẹn, “lỗi” nghịch chuẩn trong cảm nhận của người nghe bị triệt tiêu. Chưa hết, câu lục nghịch chuẩn nhưng câu bát lại hoàn toàn đúng chuẩn, mạch thơ đưa người đọc sau trạng thái dừng lại/ lắng lại suy ngẫm, lại trở về với trạng thái cân bằng, thấu cảm… Có thể hình dung Nguyễn Du như một nghệ sĩ piano thiên tài, trong cả dàn giao hưởng phong phú, đồ sộ, nếu có một âm giai nào đó lạc nhịp, ngay tức khắc ông nhận ra và tìm cách “hoá giải”, hòa phối mỹ mãn.
Về nhịp, các loại nhịp có thể diễn ra ở lục bát, Nguyễn Du đã triển khai ở dường như ở tất cả các khả năng mà lục bát cho phép. Trước hết là các khả năng của nhịp chẵn (loại nhịp chủ đạo của lục bát) ở cả câu lục và câu bát (2 - 2 - 2/ 2 – 2 – 2 – 2; 2 – 4 (hoặc 4 – 2) / 2 – 2 -2 - 2 (hay 4 - 4). Thứ hai, các loại nhịp lẻ đóng vai trò chủ đạo ở cả câu lục và câu bát: 3 - 1 - 2 / 3 – 1 – 2 - 2 (Kiếp hồng nhan - có - mong manh/ Nửa chừng xuân - thoắt - gãy cành – thiên hương). Thứ ba, các loại nhịp lẻ của câu lục: 1 - 3 - 2 (Rằng - con biết tội - đã nhiều); 1 – 2 – 1 - 2 (Rằng - trăm năm - cũng - từ đây); 3 – 3 (điển hình là 23 trường hợp đã nêu). Thứ tư, các loại nhịp lẻ của câu bát: 3 – 3 – 2 (Đĩa dầu vơi - nước mắt đầy - năm canh); 3 - 1 - 2 - 2 (Với Vương quan – trước – vốn là – đồng thân); 3 – 1 – 4 (Vạch da cây – vịnh – bốn câu ba vần); 3 – 5 (Đóa trà my - đã ngậm gương nửa vành);... Tất cả các loại nhịp được Nguyễn Du vận dụng đều đạt hiệu quả nghệ thuật viên mãn.
Về vần, đúng như khảo sát và kết luận của Phan Ngọc: “Nguyễn Du là người hiệp vần công phu nhất trong số các nhà thơ Việt Nam”, “vần của ông vừa chặt chẽ nhất, vừa đa dạng nhất”([26]).
Sau Truyện Kiều, lục bát trong truyện Nôm lại trở về với chức năng tự sự/ kể chuyện và chức năng giáo huấn vốn đã được “chuyên hóa” từ thế kỷ trước. Nguyễn Đình Chiểu viết liền đến ba truyện Nôm dài: Lục Vân Tiên (2082 câu), Dương Từ - Hà Mậu (3456 câu, có xen 35 bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú), Ngư Tiều y thuật vấn đáp (3642 câu)... Cái mới đáng nói nhất của Nguyễn Đình Chiểu là ông đã đưa truyện Nôm - lục bát sang một hướng khác với truyện Nôm - lục bát truyền thống bằng việc gắn chức năng và nội dung của thể loại với những vấn đề thời sự nóng bỏng của đất nước, thời đại. Lục Vân Tiên là bài ca về lý tưởng nhân nghĩa và lòng thương người, là những giáo huấn, rao giảng dễ nghe, dễ chịu về đạo lý làm người, là những dự báo về nguy cơ của cái ác và giặc ngoại xâm. Dương Từ - Hà Mậu là cuộc tranh luận, biện bác giữa hai nhân vật về chính đạo và tà đạo để khẳng định Chính đạo. Ngư Tiều y thuật vấn đáp là cuộc đối thoại, vấn đáp về y thuật, về chính khí và tà khí, cũng là để tìm thầy, tìm thuốc, tìm cách chữa bệnh cứu dân, cứu nước... Chức năng có mới, nội dung mới, nhưng về thi pháp thể loại, lục bát/ truyện Nôm – lục bát ở đây lại phát triển theo hướng thô phác, bình dân. Cũng không khó để nhận ra dấu ấn ảnh hưởng của Truyện Kiều trong truyện Nôm của Nguyễn Đình Chiểu.
Sang đầu thế kỷ XX, lục bát (trong truyện Nôm - lục bát) lại xuất hiện trở lại với chức năng mới: tuyên truyền cách mạng, cổ vũ sự nghiệp cứu nước, dân chủ và duy tân. Với tinh thần ấy, Phan Châu Trinh viết Giai nhân kỳ ngộ diễn ca với khoảng gần 7000 câu lục bát, có xen gần 30 bài thơ thất ngôn và biền văn, dựa theo Giai nhân kỳ ngộ diễn ca của Shiba Shiro (Nhật Bản). Có thể dễ dàng nhận thấy về mặt thi pháp thể loại, Giai nhân kỳ ngộ diễn ca có khác nhiều với truyện Nôm truyền thống và không ít hạn chế (Nguyễn Huệ Chi đã phân tích khá kỹ và cho đây là “một thể nghiệm mới của Phan Châu Trinh về truyện thơ lục bát”)([27]). Đấy là lục bát trong truyện Nôm (truyện Nôm – lục bát/ thể loại “kép” thuần việt mà Truyện Kiều là đỉnh cao vời vợi).
Còn lục bát với tư cách là một thể loại độc lập càng chịu ảnh hưởng từ lục bát Truyện Kiều; và chính lục bát Truyện Kiều lại đặt ra quá nhiều thử thách cho lục bát về sau (Vấn đề này sẽ được trình bày rõ ở Chương 2, mục 2.2.3).
2.3. Nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều (những giá trị)
2.3.1. Thế giới nhân vật và những mẫu hình giá trị trong Truyện Kiều
Truyện Kiều vừa mang đặc trưng thể loại của truyện, vừa mang đặc trưng thể loại của thơ. Chính vì thế, ở đây, tác phẩm đòi hỏi phải có nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật theo một cách đặc biệt. Đây cũng là mặt yếu lâu nay của truyện Nôm. Với Truyện Kiều, Nguyễn Du đã có những đột phá mạnh mẽ, có những đóng góp lớn lao chưa từng có. Giới nghiên cứu cũng đã từng nói đến phương pháp điển hình hoá của Nguyễn Du vừa lãng mạn vừa hiện thực nhưng nghiêng về phía hiện thực và được thể hiện không giống nhau trong các loại nhân vật. Có một thế giới nhân vật chưa từng có trong truyện Nôm như Truyện Kiều. Có thể phân loại các kiểu nhân vật trong Truyện Kiều theo nhiều góc nhìn khác nhau.
Từ góc nhìn xã hội, thấy thế giới nhân vật ấy hết sức phong phú, bao gồm đủ mọi tầng lớp/ hạng người, từ giới cầm quyền bậc cao đến bậc thấp (từ tổng đốc trọng thần đến bọn quan lại, sai nha, thư lại, “thổ-quan”); từ tầng lớp thượng lưu, “thương gia” đến những “những người khốn khổ”; từ anh hùng đến gái thuyền quyên; từ người tốt, lương thiện đến bọn buôn thịt bán người và mọi loại lưu manh, lừa lọc; từ hữu danh đến vô danh; từ “khách làng chơi” đến những người bán thân “phục vụ”; từ người theo đạo đến người không theo đạo (tôn giáo)… Ở mẫu người nào, Truyện Kiều cũng có những nhân vật “để đời”.
Có thể tìm thấy bóng dáng và những đặc điểm bản chất của từng loại người ấy trong các xã hội hiện đại. Giới quản lý/ quản trị xã hội hiện đại có thể tìm thấy những bài học “quản lý” con người ở đây. Đấy là đóng góp, là giá trị của thế giới nhân vật từ Truyện Kiều của Nguyễn Du, từ góc nhìn xã hội.
Từ góc nhìn bút pháp nghệ thuật, có thể thấy thế giới nhân vật của Truyện Kiều được xây dựng theo các hướng: hiện thực, lãng mạn, vừa hiện thực vừa lãng mạn, nhân vật chức năng (hoặc tư tưởng),...
Loại nhân vật được xây dựng theo hướng hiện thực (tức loại nhân vật, khi xây dựng, Nguyễn Du chú trọng bút pháp hiện thực) chiếm tỷ lệ áp đảo trong Truyện Kiều. Loại nhân vật này, chủ yếu là nhân vật phản diện (Tú bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh,...), sau đó là các nhân vật tuy không thực sự là phản phản diện nhưng vẫn mang tính tiêu cực như Hoạn Thư (và phần nào là Thúc Sinh). Tất cả đều có cá tính rõ nét, là “con người này”,...
Loại nhân vật được xây dựng theo hướng lãng mạn (tức loại nhân vật, khi xây dựng, Nguyễn Du thiên về bút pháp lãng mạn) nhưng lại rất thực về mặt tâm lý (như Kim Trọng: bên Kiều, chàng vẫn có thể “xiêu xiêu” trước “sóng tình”; Từ Hải bên cạnh những nét uy dũng, kiêu hùng, vẫn có những nét thường tình, cả tin)...
Loại nhân vật vừa hiện thực vừa lãng mạn, tiêu biểu như Thuý Kiều. Điều đáng chú ý ở đây là nhân vật Thuý Kiều, về ngoại hình còn mang đậm tính ước lệ nhưng về tâm lý, tính cách lại rất hiện thực. Vì vừa hiện thực vừa lãng mạn nên nhân vật Thuý Kiều có quan hệ với hai loại nhân vật trên.
Loại nhân vật mang tính chức năng, như là “cái loa” phát ngôn tư tưởng cho Nguyễn Du: Đạm Tiên và Tam hợp đạo cô. Nhân vật Đạm Tiên xuất hiện với hai tư cách, vừa là nạn nhân (Sống làm vợ khắp người ta/ hại thay thác xuống làm ma không chồng) vừa là sứ giả định mệnh, luôn luôn mách đường cho Kiều đi; Nhân vật sư Tam Hợp đạo cô như là “cái loa” phát ngôn tư tưởng triết lý của Nguyễn Du...
Nhiều mẫu hình nhân vật trong Truyện Kiều trở thành khái niệm/ danh từ chung để chỉ một đặc trưng của một loại/ hạng/ kiểu người trong xã hội loài người. Chẳng hạn: chủ chứa (Tú Bà, Lầu xanh có mụ Tú Bà); ma cô, lừa lọc (Sở Khanh: Một tay chôn biết mấy cành phù dung); ghen tuông và nham hiểm (Hoạn Thư: Đàn bà thế ấy thấy âu một người); sợ vợ, yếu đuối, bất lực (Thúc Sinh, Nghĩ tình chàng Thúc mà thương)... Ngay kiểu nhân vật được xây dựng chủ yếu bằng bút pháp lãng mạn, ước lệ cũng trở thành mẫu hình mang ý nghĩa biểu trưng sâu sắc cho khát vọng cháy bỏng muôn thuở của con người: khát vọng tự do, vẫy vùng công lý (nhân vật Từ Hải). Nhân vật Thuý Kiều được xây dựng vừa bằng bút pháp lãng mạn, ước lệ, vừa bằng bút pháp hiện thực, từ trang sách đã bước vào đời sống hàng trăm năm nay, “từ lâu đã được mọi người âu yếm, quý trọng, yêu mến đến say mê” (lời Hoài Thanh).
2.3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Truyện Kiều
Trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, Nguyễn Du vận dụng sáng tạo hầu như đủ mọi thủ pháp, cách thức của văn học, từ miêu tả ngoại hình đến nội tâm, hành động đến ngôn ngữ của nhân vật; từ kết nối các mối quan hệ đến tạo dựng bối cảnh không gian, thời gian cho nhân vật xuất hiện...
Miêu tả ngoại hình: Các nhân vật trong Truyện Kiều đều hiện lên với những đặc điểm riêng sắc nét về ngoại hình. Với Thuý Kiều, Nguyễn Du dùng phương pháp ẩn dụ. Đặc điểm ngoại hình của Thuý Kiều chưa phải đã được cá thể hoá (trong khi đó, ngoại hình của các nhân vật phản diện được cá thể hoá rất cao: Tú Bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh,... “mỗi người một vẻ”), nhưng vẫn đủ để khu biệt với ngoại hình (vẻ đẹp) của Thuý Vân. Ông so sánh đối lập Kiều và Vân, miêu tả Vân trước, làm “đòn bẩy”, nhấn mạnh tài đàn, thơ, ngâm hoạ và nét đa tình ở Kiều, qua đó hé lộ tâm lý, tính cách nhân vật. Có thể thấy, đây cũng là bước đột phá của Nguyễn Du. Trước và cùng thời với Nguyễn Du, việc miêu tả ngoại hình nhân vật trong văn học của ta còn rất sơ sài, thậm chí là tuỳ hứng; đặc điểm ngoại hình, nhất là vẻ đẹp không có ý nghĩa bộc lộ nội tâm.
Vấn đề đáng nói ở đây là Nguyễn Du rất nhất quán, ngay trong miêu tả ngoại hình của Kiều. Trải 15 năm lưu lạc, vẻ đạp hình thức của Kiều dường như không thay đổi (trong buổi “đoàn viên”, gặp lại gia đình, Kiều vẫn Dung quang chẳng khác chi ngày bước ra)...
Cái thay đổi nhiều ở Kiều là tâm lý và tính cách (qua miêu tả thế giới nội tâm, hành động và ngôn ngữ). Trải 15 năm sóng gió, sự từng trải đã làm cho Kiều trở nên dày dạn, khôn ngoan hơn trong các ứng xử với nhiều loại người, từ bọn buôn thịt bán người (Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh,...), “chính danh thủ phạm” (Hoạn Thư) đến những người quý trọng, yêu mến Kiều (kẻ lại họ Chung, Mã Kiều, mụ quản gia, sư Giác Duyên); từ người yêu buổi đầu (Kim Trọng) đến anh hùng, tri kỷ (Từ Hải);... Tuy nhiên, những ngày chồng chất đau khổ cũng làm cho yếu tố tiêu cực trong Kiều tăng lên, lòng yêu đời ham sống cứ nguội dần. Cho đến màn đoàn viên, Kiều đã quá mệt mỏi: Sự đời đã tắt lửa lòng/ Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi...
Nguyễn Du cũng rất nhất quán trong miêu tả biện chứng tính cách của Kiều. Bên cạnh những nét biến đổi là những nét ổn định trong tính cách Kiều: thông minh, đa cảm, tế nhị, có ý thức sâu sắc về mình, có lòng tự trọng cao. Đặc sắc của hình tượng Thuý Kiều là sự thống nhất, ổn định giữa cái bất biến và cái khả biến.
Ngôn ngữ nhân vật Truyện Kiều (dưới hai dạng độc thoại và đối thoại) được tính cách hoá, đã thoát ra khỏi ngôn ngữ riêng của tác giả. Mỗi nhân vật có một ngôn ngữ riêng. Cùng một nhân vật mang một bản chất nhưng trong từng hoàn cảnh khác nhau, nhân vật lại có những phát ngôn khác nhau (chẳng hạn, ngôn ngữ của Tú Bà, lúc mụ đánh mắng Thuý Kiều đầy đay nghiến, tàn độc; lúc Kiều toan quyên sinh, mụ lại ngon ngọt dỗ dành Kiều)…
Ngôn ngữ của Thuý Kiều cũng thay đổi theo thời gian và biến cố nhưng vẫn luôn luôn tế nhị (trong đối thoại).
Ngôn ngữ độc thoại của nhân vật trong Truyện Kiều cũng là một bước phát triển “nhảy vọt” trong lịch sử văn học dân tộc. Trần Đình Sử đã có một số thống kê cụ thể về “độc thoại nội tâm” trong Truyện Kiều: “Với cách hiểu độc thoại nội tâm rộng (bao gồm cả lời trực tiếp, yếu tố dòng ý thức và lời độc thoại nội tâm “trực tiếp, tự do”) thì trong Truyện Kiều có khoảng 50 lần độc thoại nội tâm ngắn, dài, gồm khoảng 400 câu thơ, chiếm tỷ lệ 12, 5% lời văn Truyện Kiều, tức là trên 1/10 văn bản, một tỷ lệ không nhỏ. Nếu cộng thêm chừng 190 lần đối thoại và độc thoại, với khoảng 1189 câu và 60 dòng bình luận trực tiếp của người kể, tổng số lời phát ngôn lên đến 1640 chiếm hơn một nửa 3254 câu của toàn truyện. Điều này làm cho Truyện Kiều trở thành một thế giới tiếng nói mới mẻ đặc biệt”([28]).
Thực ra dạng ngôn ngữ này đã từng xuất hiện trong thể ngâm (Chinh phụ ngâm – nguyên tác bằng chữ Hán của Đặng Trần Côn, ra đời khoảng 1741; bản dịch ra Nôm, thể song thất lục bát của Đoàn Thị Điểm). Nguyễn Du đã biết tiếp thu, kế thừa những thành tựu của thể ngâm trong đó có ngôn ngữ độc thoại, nâng cao giá trị và dùng thủ pháp này cho cả hai loại nhân vật phản diện và chính diện.
Thuý Kiều là nhân vật phải chịu tấn bi kịch đau đớn nặng nề, dai dẳng, đồng thời là nhân vật có nhiều tâm sự khó nói nhất. Chính vì thế, Nguyễn Du để cho Kiều là nhân vật độc thoại nhiều nhất (khi suy nghĩ về Đạm Tiên: “Người mà đến thế thì thôi”…”; suy nghĩ về Kim Trọng “Người đâu gặp gỡ làm chi”…; trong liên hệ với Thuý Vân khi nghĩ về mối tình của mình “cậy”/ nhờ em…; khi Kiều đứng trước nhiều tình huống bi kịch khác nhau: lúc quyết quyên sinh tại nhà Tú Bà, lúc chuẩn bị nhảy xuống sông Tiền Đường…
Hoạn Thư là nhân vật “sâu sắc nước đời”, phải dùng độc thoại mới bộc lộ được hết đặc điểm tính cách và bản chất của Hoạn Thư. Nguyễn Du để cho Hoạn Thư độc thoại (thực ra là nói với mẹ về việc mình sẽ trừng trị Kiều nhưng như là độc thoại). Hoạn Thư như nghiến răng lại mà nói, giọng điệu cũng như lời lẽ với nhiều từ lặp lại (“làm cho”, “làm cho”, “trước cho”, “sau cho”) bộc lộ niềm sung sướng trào dâng khi được hành hạ, đày đoạ Kiều:
Làm cho cho mệt cho mê
Làm cho đau đớn ê chề cho coi!
Trước cho bõ ghét những người
Sau cho để một trò cười về sau...
Tạo ngôn ngữ đối thoại cũng là một thử thách lớn cho nhà văn. Nguyễn Du cũng để cho Kiều đối thoại trong nhiều hoàn cảnh khác nhau với nhiều đối tượng khác nhau: với Kim Trọng, với Thuý Vân; với Mã Giám Sinh, với Tú Bà, với Sở Khanh,… Ngôn ngữ đối thoại ấy, đặc biệt được thể hiện rõ trong màn báo ân báo oán. Đây là đoạn tươi sang nhất trong cuộc đời Kiều. Và đây cũng là ngữ cảnh thể hiện rõ tư tưởng cũng như tài nghệ thuật của Nguyễn Du.
Trước khi báo ân, báo oán, Kiều dường như không muốn kể nhiều về chặng đường lưu lạc đau khổ 15 năm của mình. Nàng rất nhỏ nhẹ với Từ Hải: “Chút còn ân oán đôi đường chưa xong”…
Trong cảnh báo ân, với Thúc Sinh, Kiều vẫn nói nhẹ nhàng, nhấn mạnh vào cái nghĩa: “nghĩa trọng nghìn non” của Thúc Sinh. Kiều hỏi Thúc Sinh: “Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không?”. Nàng tự xưng mình là “người cũ”. Tình cảm của Kiều ở đây được bộc lộ một cách kín đáo, phải nói thế nào để không xúc phạm Từ Hải. Nguyễn Du đã vượt được cái khó này. Khi nói “người cũ” hay “cố nhân”, Kiều gợi ra bao nhiêu kỷ niệm với Thúc Sinh (nhưng đối với Từ Hải, nghe Kiều nói với Thúc là “người cũ” hay “cố nhân”, đấy là chuyện bình thường). Đưa lễ hậu cho Thúc Sinh, nàng nói “Tạ lòng…” với thái độ trân trọng, khiêm nhường. Với Giác Duyên và Quản gia, Kiều xưng danh “Hoa Nô kia với Trạc Tuyền cũng tôi”. Có nói như vậy, Quản gia và Giác Duyên mới hiểu được Kiều là ai, và để nhắc lại quá khứ đau khổ của Kiều/ đối lập với bây giờ (hiện tại), càng biết công ơn của Quản gia và Giác Duyên: Non vàng chưa dễ đền bồi tấm thương… Kiều trọng nghĩa hơn vàng, băn khoăn vẫn chưa xứng với ơn của Giác Duyên, Quản gia. Kiều coi trọng công ơn của họ vì trong xã hội Kiều sống, những người giúp Kiều rất hiếm hoi. Coi trọng nhân nghĩa, phẩm chất đó làm cho Kiều gần gũi với nhân dân và càng cho thấy tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du. Tác giả còn chú ý đến những phản ứng tâm lý của những người được trả ơn (Thúc Sinh trông mặt bấy giờ/ Mồ hôi chàng đã như mưa ướt đầm), tô đậm thêm tác dụng của việc báo ân và sự thay đổi có tính chất đột biến trong cuộc đời Thuý Kiều. Kiều ghi nhớ sâu sắc mối ân tình nhưng cũng không quên những kẻ hại mình.
Kiều có nhu cầu trực tiếp ra tay báo oán, muốn những người quen thân với mình chứng kiến cảnh báo oán: “xin hãy rốn ngồi”/ xem cho rõ mặt biết tôi báo thù”. Trong màn báo oán, ngôn ngữ đối thoại của Kiều cũng thật xác đáng và độc đáo. Đối với Hoạn Thư, Kiều dùng hàng loạt thành ngữ: “phen này kẻ cắp bà già gặp nhau”, “Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa”. Cái nghĩa ở đây mang màu sắc phản ngữ, tính chất mỉa mai (khác hẳn “nghĩa” trong “nghĩa trọng nghìn non”). “Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa”, “mưu sâu” – “nghĩa sâu”: sẽ trả lại một cách xứng đáng.
Trong cuộc đời Kiều, Hoạn Thư là thủ phạm chính trước Hồ Tôn Hiến.
Dưới cờ gươm tuốt nắp ra
Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư
Trật tự ở đây làm nổi bật cuộc báo oán. Hoạn Thư là người đã dày vò Kiều nhiều nhất cả về tinh thần lẫn thể xác, nhất là mặt tinh thần. Về tính cách, Hoạn Thư là nham hiểm, độc ác. Kiều phủ đầu bằng một lời chào: “Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây”, nghĩa là đánh một ngón đòn tinh thần áp đảo Hoạn Thư. Nay, Hoạn Thư là một kẻ tội phạm, Kiều là quan toà xử tội. Cách gọi đó làm cho Hoạn Thư càng thấm thía tội lỗi của mình. Kiều vạch mặt Hoạn Thư:
“Đàn bà dễ có mấy tay
Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan?
Dễ dàng là thói hồng nhan
Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều”
Nguyễn Du rất tinh thế khi để cho Kiều nêu “Đàn bà” và triết lý “Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều”- thực chất là một triết lý dân gian, ai cũng thông hiểu. Sức nặng lời buộc tội của Kiều đối với Hoạn Thư càng lớn hơn nữa ở thái độ đay nghiến của Kiều: “mấy tay”, “mấy mặt”, “mấy gan”. Kiều vốn là người dịu dàng tế nhị,… Cuộc đời với nhiều nếm trải đã làm cho Kiều trở nên dày dạn, mạnh mẽ hơn. Sự thay đổi trong lời nói cũng là sự thay đổi trong tính cách của Thuý Kiều.
Ở phương diện hành động của nhân vật, Nguyễn Du cũng đã tính toán rất kỹ trong miêu tả, thể hiện, làm thế nào để chỉ cần một hành động nhỏ cũng có thể nêu bật được tính cách nhân vật. Cũng là ngồi nhưng các nhân vật đều khác nhau. Mã Giám Sinh: “Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”. Tú Bà: “Vắt nóc lên giường ngồi ngay”. Hoạn Bà: “Ban ngày sáp thắp hai bên/ Giữa giường thất bảo ngồi trên một bà”; Sở Khanh: “Lặng ngồi lẩm nhẩm gật đầu”,…
Cách nghe đàn của các nhân vật cũng khác nhau. Kim Trọng: “Khi tựa gối khi cúi đầu/ Khi vò chin khúc khi chau đôi mày”... Khác hẳn Kim Trọng, Hồ Tôn Hiến “Nghe càng đắm ngắm càng say/ Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình”. Hồ Tôn Hiến nhìn nhiều hơn là nghe, thị giác thay cho thính giác, điều này cho thấy sự trống rỗng trong tâm hồn của hắn. Miêu tả hành động sửa sai của Hồ Tôn Hiến (Hồ sợ ảnh hưởng đến “danh dự” của mình, tìm cách xoá vết nhơ của mình bằng cách gả Kiều cho một viên thổ quan), Nguyễn Du đã để cho Hồ tự lột mặt nạ mình, để cho nó tự bộc lộ bản chất dả dối, phản trắc, dâm ô qua hành động. Hồ Tôn Hiến hoàn toàn đối lập với Từ Hải. Kiều Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay là nạn nhân của Hồ Tôn Hiến...
Nguyễn Du còn chú ý dùng những lời bình phẩm của nhân vật khác hoặc của người kể chuyện để bổ sung, tô đậm thêm đặc điểm tính cách của nhân vật được nói đến. Ông dùng lời người kể chuyện nói về Mã Giám Sinh: “Một đứa phong tình…”; mượn lời Mã Kiều nói với Kiều về Sở Khanh: “Thôi đà mắc lận thì thôi/ Đi đâu chẳng biết con người Sở Khanh/ Bạc tình nổi tiếng lầu xanh/ Một tay chon biết mấy cành phù dung”; mượn lời Kiều nói về Từ Hải: “…”; mượn lời Thúc Sinh nói về Từ Hải: “Đại vương tên Hải họ Từ…”
Tóm lại, bằng những biện pháp phong phú, Nguyễn Du đã xây dựng thực sự thành công nhiều nhân vật rất thực, đặc biệt sâu sắc về mặt tâm lý, tính cách. Nhiều nhân vật của Nguyễn Du từ trang sách đã bước vào cuộc đời.
2.4. Nghệ thuật tự sự và trữ tình của Nguyễn Du trong Truyện Kiều
2.4.1. Vấn đề tự sự và trữ tình của Nguyễn Du trong Truyện Kiều
Như ở phần trước, chúng tôi đã xác định Truyện Kiều của Nguyễn Du là một cuốn tiểu thuyết bằng thơ (xin xem mục 2.2. Thể loại Truyện Kiều và nghệ thuật vận dụng, sáng tạo thể loại thuần Việt của Nguyễn Du với các nội dung cụ thể: 1, Việc lựa chọn thể loại Truyện Nôm - lục bát cho Truyện Kiều của Nguyễn Du; 2, Truyện Kiều – thành tựu đỉnh cao của thể loại Truyện Nôm – lục bát và những đóng góp kiệt xuất của Nguyễn Du cho lịch sử văn học dân tộc). Cũng đã từ lâu, người ta nhận thấy Truyện Kiều là một truyện thơ xuất sắc, và cũng là một tác phẩm trữ tình nổi tiếng. Thành công vang dội của Truyện Kiều (Nguyễn Du) khiến cho Truyện Kiều trở nên là một kiệt tác, vượt xa Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, do nhiều yếu tố, trong đó nghệ thuật tự sự và trữ tình đóng một vai trò hết sức quan trọng.
Giới nghiên cứu cũng đã từng khảo sát từng phương diện tự sự hoặc trữ tình của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Về phương pháp tự sự của Nguyễn Du, rất đáng chú ý là công trình Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều của Phan Ngọc([29]). Ông dành hẳn một chương cho vấn đề này (Chương III, từ trang 75 đến trang 106). Phan Ngọc đã chứng minh, phân tích và luận giải có sức thuyết phục những nỗ lực và thành công của Nguyễn Du trong phương pháp tự sự ở các điểm: - So với tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc, Nguyễn Du xoá bỏ mưu mô, tôn trọng logic khách quan của cuộc sống; - Gạt bỏ mọi tính chất ly kỳ trong mưu mô; - Gạt bỏ luôn cả chi tiết bên ngoài; - Lập hồ sơ, tổ chức lại các chi tiết sao cho chúng chứng minh cách đánh giá của mình là duy nhất đúng; - Rút gọn sự vật xuống tối thiểu; - Đặt sự việc vào một thế đối lập, đặt các sự kiện trong những hoàn cảnh đối lập và dùng ngôn ngữ để nêu cao sự đối lập ấy; Để nhân vật “ngồi một mình” (con người cô độc); - Đổi mới hoàn toàn bố cục của Kim Vân Kiều truyện. Phan Ngọc kết luận: “Cách tự sự của Nguyễn Du là mới mẻ, táo bạo, là một cống hiến của phong cách ông đối với văn học Việt Nam”. Tuy nhiên, đó chưa phải là tất cả nghệ thuật tự sự của Nguyễn Du, cũng chưa phải là phương pháp tự sự - trữ tình (tức kết nối, lồng ghép, xử lý mối quan hệ giữa hai phương thức, hai thành tố tự sự và trữ tình) của Nguyễn Du.
Trần đình Sử với chuyên luận Thi pháp Truyện Kiều([30]) và trên trang Trần Đình Sử (wordpress.com) đã khảo sát và xác định mô hình tự sự và hình thức tự sự của Truyện Kiều. Theo ông, “Nguyễn Du tuy có vay mượn cốt truyện của Thanh Tâm tài nhân trong Kim Vân Kiều truyện, song ông đã đổi thay mô hình tự sự của Thanh Tâm tài nhân, từ mô hình kể ngôi thứ ba, khách quan, kèm bình luận đánh giá thiên về mặt lý trí, sang mô hình tự sự ngôi thứ ba mang điểm nhìn cảm thụ cá nhân của nhân vật, kèm theo bình luận, đánh giá thiên về cảm xúc của người kể chuyện. Mô hình ấy chưa từng có trong truyền thống truyền kỳ và tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc. Đó là một sáng tạo đột xuất trên cơ sở tổng hợp truyền thống tự sự và trữ tình của dân tộc như các khúc ngâm, thơ trữ tình và truyền thống thi ca trữ tình Trung Quốc như thơ luật Đường, thơ tự sự như Trường hận ca… Chính việc chuyển đổi mô hình tự sự đã làm cho Truyện Kiều đạt được một chất lượng mới chưa từng có”.
Về chất thơ trữ tình trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, Trần Đình Sử chỉ rõ: “chất thơ trong cảnh vật”; chất thơ ở việc “trực tiếp miêu tả tình cảm cá thể của nhân vật”; “chất thơ trong lời văn và cấu trúc tự sự”; “Tất cả những biểu hiện trên hợp lại tạo thành chất thơ trữ tình đậm đặc của Truyện Kiều, nhân tố làm nên vẻ đẹp và sự rung cảm cho tác phẩm”([31]).
Trần Đình Sử đã có những thành công mới trong xác định mô hình tự sự và chất thơ trữ tình của Truyện Kiều. Song, vấn đề này ở Truyện Kiều, “vẫn chưa xong điều nghĩ”...
Vấn đề tự sự và trữ tình của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, xét từng thành tố, từng phương thức, điều khó khăn, phức tạp và quan trọng hơn là xét cả hai trong mối quan hệ cấu trúc chỉnh thể, hãy còn không ít những vấn đề chưa được quan tâm và nghiên cứu thoả đáng.
1.2.3. Giá trị của nghệ thuật tự sự - trữ tình gắn với phân tích tâm lý nhân vật trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
1.2.3.1. Vấn đề tự sự và trữ tình của Nguyễn Du trong Truyện Kiều
Như ở phần trước, chúng tôi đã xác định Truyện Kiều của Nguyễn Du là một cuốn tiểu thuyết bằng thơ (xin xem mục 2.2. Thể loại Truyện Kiều và nghệ thuật vận dụng, sáng tạo thể loại thuần Việt của Nguyễn Du với các nội dung cụ thể: 1, Việc lựa chọn thể loại Truyện Nôm - lục bát cho Truyện Kiều của Nguyễn Du; 2, Truyện Kiều – thành tựu đỉnh cao của thể loại Truyện Nôm – lục bát và những đóng góp kiệt xuất của Nguyễn Du cho lịch sử văn học dân tộc). Cũng đã từ lâu, người ta nhận thấy Truyện Kiều là một truyện thơ xuất sắc, và cũng là một tác phẩm trữ tình nổi tiếng. Thành công vang dội của Truyện Kiều (Nguyễn Du) khiến cho Truyện Kiều trở nên là một kiệt tác, vượt xa Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, do nhiều yếu tố, trong đó nghệ thuật tự sự gắn kết với trữ tình đóng một vai trò hết sức quan trọng.
Giới nghiên cứu cũng đã từng khảo sát từng phương diện tự sự hoặc trữ tình của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Về phương pháp tự sự của Nguyễn Du, rất đáng chú ý là công trình Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều của Phan Ngọc([32]). Ông dành hẳn một chương cho vấn đề này (Chương III, tr.75-106). Phan Ngọc đã chứng minh, phân tích và luận giải có sức thuyết phục những nỗ lực và thành công của Nguyễn Du trong phương pháp tự sự ở các điểm: - So với tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc, Nguyễn Du xoá bỏ mưu mô, tôn trọng logic khách quan của cuộc sống; - Gạt bỏ mọi tính chất ly kỳ trong mưu mô; - Gạt bỏ luôn cả chi tiết bên ngoài; - Lập hồ sơ, tổ chức lại các chi tiết sao cho chúng chứng minh cách đánh giá của mình là duy nhất đúng; - Rút gọn sự vật xuống tối thiểu; - Đặt sự việc vào một thế đối lập, đặt các sự kiện trong những hoàn cảnh đối lập và dùng ngôn ngữ để nêu cao sự đối lập ấy; Để nhân vật “ngồi một mình” (con người cô độc); - Đổi mới hoàn toàn bố cục của Kim Vân Kiều truyện. Phan Ngọc kết luận: “Cách tự sự của Nguyễn Du là mới mẻ, táo bạo, là một cống hiến của phong cách ông đối với văn học Việt Nam”.
Tuy nhiên, đó chưa phải là tất cả nghệ thuật tự sự của Nguyễn Du, cũng chưa phải là phương pháp tự sự - trữ tình (tức kết nối, lồng ghép, xử lý mối quan hệ gắn kết, bổ sung cho nhau giữa hai phương thức, hai thành tố tự sự và trữ tình) của Nguyễn Du.
Trần đình Sử với chuyên luận Thi pháp Truyện Kiều([33]) và trên trang Trần Đình Sử (wordpress.com) đã khảo sát và xác định mô hình tự sự và hình thức tự sự của Truyện Kiều. Theo ông, “Nguyễn Du tuy có vay mượn cốt truyện của Thanh Tâm tài nhân trong Kim Vân Kiều truyện, song ông đã đổi thay mô hình tự sự của Thanh Tâm tài nhân, từ mô hình kể ngôi thứ ba, khách quan, kèm bình luận đánh giá thiên về mặt lý trí, sang mô hình tự sự ngôi thứ ba mang điểm nhìn cảm thụ cá nhân của nhân vật, kèm theo bình luận, đánh giá thiên về cảm xúc của người kể chuyện. Mô hình ấy chưa từng có trong truyền thống truyền kỳ và tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc. Đó là một sáng tạo đột xuất trên cơ sở tổng hợp truyền thống tự sự và trữ tình của dân tộc như các khúc ngâm, thơ trữ tình và truyền thống thi ca trữ tình Trung Quốc như thơ luật Đường, thơ tự sự như Trường hận ca… Chính việc chuyển đổi mô hình tự sự đã làm cho Truyện Kiều đạt được một chất lượng mới chưa từng có”.
Về chất thơ trữ tình trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, Trần Đình Sử chỉ rõ: “chất thơ trong cảnh vật”; chất thơ ở việc “trực tiếp miêu tả tình cảm cá thể của nhân vật”; “chất thơ trong lời văn và cấu trúc tự sự”; “Tất cả những biểu hiện trên hợp lại tạo thành chất thơ trữ tình đậm đặc của Truyện Kiều, nhân tố làm nên vẻ đẹp và sự rung cảm cho tác phẩm”([34]). Trần Đình Sử đã có những thành công mới trong xác định mô hình tự sự và chất thơ trữ tình của Truyện Kiều. Song, vấn đề này ở Truyện Kiều, không chỉ có thế.
Vấn đề tự sự và trữ tình của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, phần lớn các công trình, nếu có quan tâm, cũng thường xét riêng từng thành tố (hoặc là tự sự, hoặc là trữ tình). Điều khó khăn, phức tạp và quan trọng hơn là xét cả hai trong mối quan hệ cấu trúc chỉnh thể. Ở đây, còn không ít những vấn đề chưa được quan tâm và nghiên cứu thoả đáng.
1.2.3.2. Phương pháp tự sự, trữ tình và mối quan hệ giữa tự sự - trữ tình trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
Nhìn Truyện Kiều từ mối quan hệ giữa hai thể loại: truyện (tự sự) và thơ (trữ tình) và từ mối quan hệ giữa hai phương thức/ hai kiểu tư duy (tự sự và trữ tình), chúng tôi đã có dịp nói đến ở phần trước (mục 2.2.2.2. Thể loại Truyện Kiều và những đóng góp của Nguyễn Du cho lịch sử văn học dân tộc). Ở đây, chỉ xin làm rõ mấy điểm mới trong khảo sát và xác định của chúng tôi về phương pháp tự sự, trữ tình và cách xử lý mối quan hệ giữa tự sự và trữ tình trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Đây cũng là những đặc sắc hay là giá trị của vấn đề tự sự và trữ tình ở Truyện Kiều.
Với phương thức và các thành tố của tự sự, thử thách đặt ra trước hết cho Nguyễn Du là phải xử lý, tổ chức lại cốt truyện (vì cốt truyện là vay mượn). Vay mượn cốt truyện Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân nhưng sáng tạo của Nguyễn Du ở đây là rất lớn. Ông phải tổ chức lại cốt truyện với các sự kiện, biến cố, nhân vật, tình huống, tình tiết,... theo hướng mới, gắn với trữ tình.
Ngay từ đầu, tên tác phẩm được Nguyễn Du đặt lại, thực chất đây là một sự sáng tạo mới: Đoạn trường tân thanh – Tiếng kêu/ tiếng nói mới đứt ruột. Tên tác phẩm vừa gợi chuyện (truyện – tự sự) vừa gợi cả một trời xót xa thương cảm (thơ - trữ tình). So sánh với cái tên Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, cái tên Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du khác hẳn một trời một vực, vừa cho thấy cái khác trong cách định danh đối tượng (tác phẩm), vừa cho thấy ý đồ, tư tưởng sáng tác của Nguyễn Du.
Nguyễn Du lấy tính cách Thuý Kiều làm trung tâm tổ chức cốt truyện; bổ sung thêm các chi tiết chủ yếu đi sâu vào tâm lý nhân vật...
Tác giả rất linh hoạt, uyển chuyển trong chuyển mạch, chuyển đoạn: Chuyển mạch từ tâm trạng Thuý Kiều sang tâm trạng Kim Trọng: Cho hay là giống hữu tình....; Chuyển cảnh, chuyển mốc thời gian bằng những hình ảnh, những ẩn dụ đầy chất thơ, tính thơ, đầy tính tạo hình và biểu cảm:
Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân...
Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông...
Hoàn cảnh bao quanh nhân vật bao giờ cũng được tạo dựng, khắc hoạ đầy chất thơ, ngôn ngữ thì dĩ nhiên đầy tính thơ. Cảnh gặp Kim Trọng:
Trông chừng thấy một văn nhân
Lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng. Ðề huề lưng túi gió trăng, Sau chân theo một vài thằng con con. Tuyết in sắc ngựa câu giòn, Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời
Miêu tả chốn thư phòng của Kim Trọng, Nguyễn Du chỉ nêu vài chi tiết: một bức tranh cầm… Cảnh nhà Hoạn bà: Ngước trông toà rộng dãy dài/ Thiên quan trủng tể có bài treo trên/ Ban ngày sáp thắp hai bên…
Cảnh vườn của nhà Thuý Kiều sau cơn gia biến:
Đầy tường gai góc mọc đầy
Đi về rày những lối này năm xưa
Nhà Kiều: Nhà tránh vách đất tả tơi
Lau treo rèm nát trúc cài phên thưa…
Tất cả những chất liệu và cách xử lý trên khiến cho tự sự dính chặt với trữ tình, khó có thể gỡ ra được; tự sự dẫn dắt trữ tình, trữ tình tạo “chất thơ” cho tự sự, khiến cho câu chuyện vốn là “khách quan” nhưng lại như là “tiếng lòng” của chủ quan người tiếp nhận...
1.2.3.3. Cái tôi tác giả, nhân vật người kể chuyện và điểm nhìn trần thuật
Đây là những thành tố có vai trò hết sức quan trọng giúp Nguyễn Du vừa thực hiện tốt yêu cầu của tự sự/ truyện, vừa thực hiện tốt yêu cầu của trữ tình/ thơ, hơn thế nữa, là gắn kết tự sự và trữ tình trong một cấu trúc, một hệ thống chỉnh thể.
Hơn bất cứ truyện Nôm nào khác, cái tôi tác giả trong Truyện Kiều được thể hiện hết sức rõ rệt, mặc dầu tác giả không hề xưng danh dù là bằng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất hay tên riêng (trong thơ chữ Hán, ông tự xưng bằng nhiều đại từ nhân xưng ngôi một như “ngã”, “ngô”, “dư”,… hay tên riêng như trong bài Độc Tiểu Thanh ký: Bất tri tam bách dư niên hậu/ Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như). Cái tôi tác giả ấy thể hiện qua cái nhìn bao thấu cả “trăm năm trong cõi người ta”, qua những trải nghiệm với tấm lòng cảm thương sâu sắc “Trải qua một cuộc bể dâu/ Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”, qua ngôn ngữ tác giả/ người trần thuật/ kể chuyện (như đã nêu ở trước, mục…),... Điều quan trọng cần nói ở đây là: nhờ cái tôi tác giả này mà sự kết nối, gắn kết giữa hai thành tố tự sự và trữ tình trong Truyện Kiều càng thêm chặt chẽ, xuyên suốt tác phẩm.
Người kể chuyện (một biểu hiện của hình tượng tác giả/ sự “hoá thân” của Nguyễn Du) bao giờ cũng đứng về phía Kiều, điểm nhìn trần thuật là từ Kiều. Như đã nêu ở trước, Nguyễn Du đứng ở phía Thuý Kiều mà dựng cảnh. Có thể thấy cảnh báo ân báo oán là cảnh “điển hình” nhất, được Nguyễn Du tạo dựng công phu nhất. Ở đây, tập hợp đầy đủ các loại diễn ngôn (của nhiều chủ thể phát ngôn: tác giả, người kể chuyện/ trần thuật, nhân vật; của nhiều phương thức/ thể loại: tự sự/ truyện; trữ tình/ thơ; kịch...).
Trước hết, cảnh được dựng theo nguyện vọng và yêu cầu của Thuý Kiều. Kiều bộc lộ, giải bày với Từ Hải bằng cách tóm lược ngắn gọn (theo cách của trữ tình/ thơ) quãng đời 15 năm lưu lạc khổ đau đã qua, nói rõ thực trạng hiện tại và điều mong chờ ở tương lai của mình:
Khi Vô Tích, khi Lâm Tri Nơi thì lừa đảo, nơi thì xót thương Tấm thân rày đã nhẹ nhàng Chút còn ân oán đôi đường chưa xong
Nghe xong, Từ Hải “đùng đùng sấm vang”, “Nghiêm quan tuyển tướng sẵn sàng”... Cảnh chuẩn bị cho cuộc báo ân báo oán được dựng một cách uy nghiêm (dùng nhiều từ Hán Bác đồng chật đất, tinh kỳ rợp sân), ngắn gọn nhưng đầy đủ, cụ thể, không hề sơ lược… Bối cảnh uy nghiêm ấy làm nền cho vị trí nổi bật của Kiều: Từ công sánh với phu nhân cùng ngồi (“từ công”, “phu nhân”: cách gọi tôn kính). Kiều từ địa vị một gái lầu xanh trở thành “phu nhân”. Đây là một sự đổi đời mang tính bước ngoặt của Thuý Kiều.
Xét về mặt nghệ thuật tổ chức tác phẩm, bối cảnh - tình huống đặc biệt này cho phép và bắt buộc Nguyễn Du sử dụng nhiều bút pháp dựng người, dựng cảnh khác nhau, nhiều loại diễn ngôn khác nhau. Mối quan hệ giữa tự sự và trữ tình càng được thắt chặt, kết nối… Từ rằng ân oán hai bên/ Mặc nàng xử quyết, báo đền cho minh… Hai lần Từ Hải nói đến “mặc nàng”, chứng tỏ Từ Hải rất tin ở Kiều, thông cảm và thấu hiểu nhu cầu muốn tự mình ra tay báo ơn báo oán của Kiều, thừa hiểu không ai có thể báo ân, báo oán thay Kiều được.
Nguyễn Du luôn luôn quan tâm đến nội tâm nhân vật – yếu tố quan trọng bên cạnh yếu tố thể loại thơ, giúp cho tự sự và trữ tình luân gắn kết, quan hệ chặt chẽ với nhau. Miêu tả tâm lý nhân vật, nhất là nhân vật Thuý Kiều, Nguyễn Du từ nội tâm, từ điểm nhìn của Kiều mà nhìn người và việc. Chẳng hạn, khi Kiều kể tên một loạt tội phạm với thái độ đay nghiến, Kiều kể theo logic nội tâm chứ không phải theo trật tự thời gian, kể theo độ đậm nhạt của các ấn tượng về những nỗi đau khổ mà chúng gây ra cho nàng. Thái độ của Kiều rất dứt khoát. Tuy có viện đến đạo trời Nàng rằng lồng lộng trời cao/ Hại nhân nhân hại sự nào tại ta, nhưng điều đó không ngăn cản Kiều trả thù quyết liệt. Kiều xử theo lời thề của chúng – những kẻ đã gây ra bao nhiêu đau khổ cho nàng. Trước hết, cần nói đến Hoạn Thư – “chính danh thủ phạm”. Đây là màn xử lý hay nhất, độc đáo nhất của ngòi bút Nguyễn Du về một tình huống phức tạp nhất trên tất cả các phương diện của nghệ thuật khắc hoạ nhân vật. Ông để cho Hoạn Thư vừa tự bào chữa cho mình, vừa phản công lại Kiều. Hoạn Thư nhân danh cùng giới, nhân danh người vợ cả bị tình phụ mà nói chuyện với Kiều; kể ơn của mình đối với Kiều nhưng không làm xúc phạm Kiều; chỉ biết mong Kiều nghĩ lại: Nghĩ cho khi các viết kinh/ Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo… Mụ bày tỏ tình cảm thực của mình với Kiều: Lòng riêng riêng những kính yêu/ Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai. Đại từ “ai” phiếm chỉ rất lợi hại, chỉ chung, với ý khẳng định. Mụ vừa nhận tội về mình, vừa biện bạch, lại vừa nâng Kiều lên: “Trót đà gay dựng công gai/ Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng”? Cơn giận trong Kiều khó mà không thể “hạ hoả”. Đúng là như vậy! “Khen cho thật cũng nên rằng/ Khôn ngoan phải mực, nói năng phải lời”… Lời Kiều đầy những hư từ, chứng tỏ nàng không tránh khỏi những lúng túng, phân vân, cân nhắc giữa hai cách xử: “Tha ra”: “thì cũng may đời. “Không tha”: “mang tiếng con người nhỏ nhen”… Kiều biết Hoạn Thư đã biết lỗi: “Đã lòng tri quá thì nên”… Kiều đi đến quyết định: tha bổng, “Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay”. Việc Kiều tha bỗng Hoạn Thư từng gây ra không biết bao nhiêu tranh cãi. Nhưng thực ra, điều này không trái với logic nghệ thuật. Ứng xử này của Kiều có cội nguồn sâu xa từ trong tính cách của nàng và đã được Nguyễn Du chuẩn bị từ trước.
Kiều thừa biết sự ghen tuông của Hoạn Thư nhưng có thể nàng không thấy được mục đích sâu xa của cái ghen ở Hoạn Thư (Hoạn Thư ghen, trong thâm tâm, cái chính là để trị Thúc Sinh, để lập lại trật tự nề nếp gia đình). Chính vì thế, Kiều xem đây là cái ghen thường tình của đàn bà… Điều này lại rất phù hợp với tính cách của Thuý Kiều (nàng là con người vị tha, nhân hậu, cả tin, không mưu mô, thủ đoạn). Hoạn Thư rất khôn ngoan khi lái cái ghen của mình sang cái ghen thường tình: “Ghen tuông thì cũng người ta thường tình”, và tiếp đó kể công vớí Kiều đúng sự thật: “Nghĩ cho khi các viết kinh/ Đến khi khỏi cử dứt tình chẳng theo” (Thực ra, việc Hoạn Thư cho Kiều ra Quan âm các “giữ chùa”, “chép kinh”, rồi không truy nã Kiều khi Kiều bỏ trốn, mục đích sâu xa là nhổ được cái gai trước mắt mình). Chính vì thế, nếu Kiều giết hoặc đánh Hoạn Thư (như trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân), chắc chắn tính chặt chẽ trong logic tính cách của Kiều thì sẽ bị phá vỡ.
Nguyễn Du đã để cho Kiều nhân danh nỗi đau khổ của riêng của mình mà xét Hoạn Thư. Việc Kiều tha bổng Hoạn Thư, về lý, Kiều có cái lý để tha; về tình, như trên đã nói: Kiều là con người vị tha, nhân hậu, “thật dạ, tin người”, ý thức cao về phẩm giá, nhân cách, không muốn để mang tiếng “con người nhỏ nhen”. Và, cũng có thể ở đây, Nguyễn Du muốn nêu một triết lý sống dân gian: “đánh kẻ chạy đi, không đánh người chạy lại”! Còn đối với các tội nhân khác, Nguyễn Du không cần phải tốn nhiều bút mực. Nghệ sĩ thiên tài là ở chỗ đó, nói cái cần nói – nói sâu, chừa những khoảng trống cần thiết cho người đọc “rót” thêm ý nghĩ của mình vào… Đây cũng là một trong những lý do khiến cho yếu tố trữ tình/ chất thơ gắn quyện với yếu tố tự sự/ chất văn xuôi của “tiểu thuyết bằng thơ”: Truyện Kiều. Xét riêng nghệ thuật tự sự và trữ tình của Nguyễn Du ở Truyện Kiều, ngay chỉ với thủ pháp này, Nguyễn Du cũng đã để lại bao nhiêu bài học quý giá cho sáng tạo nghệ thuật ngôn từ, bao hàm cả các thể loại tự sự và các thể loại trữ tình…
Chương 2
ẢNH HƯỞNG CỦA NHỮNG GIÁ TRỊ TIÊU BIỂU CỦA
TRUYỆN KIỀU Ở GÓC ĐỘ GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT VỚI
QUÁ KHỨ , HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI
2.1. Ảnh hưởng của của các giá trị tiêu biểu của Truyện Kiều ở góc độ giá trị nghệ thuật đến lịch sử văn học nghệ thuật dân tộc .
Ảnh hưởng của Truyện Kiều đối với lịch sử văn học nghệ thuật dân tộc là hết sức sâu sắc, và lâu dài. Ở đây, chúng tôi chỉ nói đến ba vấn đề thiết yếu, đã từng và đang là thử thách lớn cho việc tiếp nhận và lý giải đặc sắc cũng như giá trị của kiệt tác Truyện Kiều.
Thứ nhất, đối với sáng tác văn học: Truyện Kiều, từ nội dung nhận thức đến ngôn ngữ, thể loại; từ nhân vật đến các sự kiện, tình huống, tình tiết,… đều trở nên nguồn cảm hứng vô tận cho mọi loại hình sáng tác văn học, nghệ thuật suốt 200 năm qua.
Từ khi Truyện Kiều ra đời cho đến nay, đã có hàng nghìn bài thơ, giai thoại và các sáng tác khác về Nguyễn Du và Truyện Kiều . Về thơ, tiêu biểu như Phạm Quý Thích, Hà Tôn Quyền, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Chu Mạnh Trinh, Tôn Thọ Tường, Phan Văn Trị, Tản Đà... Về giai thoại, đã có tới ít nhất là 53 giai thoại về Truyện Kiều([35]). Về truyện thơ, rất dáng chú ý là hiện tượng “hậu Truyện Kiều” với 7 tác phẩm “dài hơi”([36]). Đây là hiện tượng Parody (nhại) Truyện Kiều, chúng tôi sẽ phân tích, luận giải kỹ ở mục 2.2.3 (Parody/ nhại thể loại Truyện Kiều).
Gần đây có một số cuốn tiểu thuyết hiện đại viết về Nguyễn Du và Truyện Kiều: tiểu thuyết Nguyễn Du (2010) của Nguyễn Thế Quang, Nguyễn Du đời và tình (2012) của Đinh Công Vĩ, Nguyễn Du trên đường gió bụi (2013) của Hoàng Khôi). Văn xuôi nghệ thuật (tản văn, truyện ngắn, tiểu thuyết viết về Nguyễn Du và Truyện Kiều, nhìn chung thành tựu kể cả số lượng và chất lượng còn mỏng.
Thứ hai, đối với các loại hình nghệ thuật khác: Truyện Kiều liên tục là đối tượng “chiếm lĩnh” của các loại hình nghệ thuật: kịch hát/ ca kịch (chèo, cải lương), kịch nói, kịch hình thể, dân ca Bài Chòi, Ca Huế, âm nhạc, mỹ thuật, vũ đạo, phim truyền hình, phim điện ảnh, phim hoạt hình, múa rối,… (Chẳng hạn, Âm nhạc: Kiều đi vào các ca khúc, hợp xướng của nhiều nhạc sĩ như Phạm Duy, Vũ Đình Ân, Nguyễn Thiên Đạo, Đỗ Hồng Quân,…; Kịch nói: Kiều, kịch bản: Nguyễn Hiếu, đạo diễn: Anh Tú; Cơn ghen Hoạn Thư, kịch bản: Phương Văn, đạo diễn: Trần Tường; múa rối: Thân phận nàng Kiều (tác giả: Lê Chức - Nguyễn Hiếu; đạo diễn: Nguyễn Tiến Dũng); Phim điện ảnh: Kim Vân Kiều (tác giả: E.A.Famechon - người Pháp) và Nguyễn Văn, Công ty phim và chiếu bóng Đông Dương/ Indochine Films et Cinémas thực hiện, công chiếu tại Hà Nội, 1924… Rất đáng nói, gần đây xuất hiện ba bộ phim điện ảnh lấy cảm hứng từ Kiều (Kiều, kịch bản: Phi Tiến Sơn, Đạo diễn: Mai Thu Huyền; Kiều @ (Đạo diễn: Đỗ Thành An; Sài Gòn nhật thực, Kịch bản: Othello) đã công chiếu nhưng đều thất bại, nếu không muốn nói là thảm hoạ… Bài học sâu sắc cần rút ra ở đây là phải biết học tập Nguyễn Du khi tiếp nhận Kim Vân Kiều truyện để sáng tạo nên tác phẩm mới có giá trị. Dĩ nhiên để làm được như Nguyễn Du đòi hỏi phải là người có thực tài và phải có nhiều thứ vốn (vốn văn hoá, vốn tri thức, vốn sống,…). Điều tối thiểu mang tính khả thi có thể học tập Nguyễn Du là phải nắm được, hiểu được nguyên tác mà mình tiếp nhận.
Thứ ba, đối với lịch sử nghiên cứu, phê bình văn học: Truyện Kiều là đối tượng hàng đầu trong lịch sử nghiên cứu, phê bình văn học với hàng nghìn công trình khác nhau. Điều quan trọng, mới mẻ mà chúng tôi muốn nói ở đây là: Truyện Kiều qua nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau từng là nơi hội tụ và thử nghiệm của nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau, nhiều quan điểm tư tưởng khác nhau, lắm khi trái ngược. Truyện Kiều là một hiện tượng văn học chứa nhiều vấn đề sâu sắc, phức tạp, bí ẩn của con người ở nhiều thời đại, không chỉ của dân tộc mà còn của nhân loại, lại được thể hiện bằng một bút lực thiên tài, chính vì thế, kiệt tác này luôn là sự “khiêu khích” và thử thách mọi lý thuyết và phương pháp chiếm lĩnh.
Xưa nay, những kiệt tác của các thi hào, văn hào, phần lớn đều trở nên là những “thao trường”, thậm chí là “chiến trường” tranh cãi, xung đột, lắm khi quyết liệt giữa những quan niệm tiếp nhận và nghiên cứu khác nhau của các trường phái, lưu phái, nhóm, cá nhân... Trong văn học Việt Nam có thể thấy có bốn hiện tượng tiêu biểu điển hình cho sự thu hút mạnh mẽ sự “tranh cãi” như vậy: Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương (thời trung đại), Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Huy Thiệp (thời hiện đại).
Đặc biệt hơn, Truyện Kiều của Nguyễn Du, hơn bất cứ tác phẩm nào khác, từng là nơi được đưa ra vận dụng, thử nghiệm nhiều phương pháp nghiên cứu theo nhiều lý thuyết khác nhau, từ Xã hội học (Sociology), Văn hóa học (Culturology), Phân tâm học (Psychoanalysis), Lý thuyết thông tin (Information Theory), Nhân học văn hóa (Cultural anthropology), Phong cách học (Stylistics), Thi pháp học (Poetics), Mỹ học tiếp nhận (Receptional Aesthetic), Thuyết người đọc (Reader Theory), Mỹ học Mác-xít (Cosmetology Marxist),... đến Chủ nghĩa hiện sinh (Existentialism), Nữ quyền luận (Feminism), Hình thức luận (Formalism), Cấu trúc luận (Structuralism), Liên văn bản (intertextuality), thậm chí cả Chủ nghĩa hậu hiện đại (Postmodernism), v.v… Có những lý thuyết được vận dụng thành công, có những lý thuyết vận dụng thất bại, thậm chí là thảm hoạ (như thuyết Phân tâm học/ Psychoanalysis)... Nhưng điều đáng nói ở đây là sức hấp dẫn, thu hút và sự lan tỏa đến không cùng của Truyện Kiều. Truyện Kiều của Nguyễn Du thực sự đã cung cấp thêm cho nhiều lý thuyết những dữ liệu mới “đắt giá”([37])...
Thực ra, khó có lý thuyết nào có thể bao quát hoặc theo sát được sự đa dạng - độc đáo - phức tạp với những gì được hiển thị và không hiển thị của Truyện Kiều ở cả hai phía “bên này” và “bên kia” câu chữ, văn bản. Giá trị của ngôn ngữ, của bút pháp, nói chung là của nghệ thuật Nguyễn Du là ở chỗ đó. Có thể nói, hơn ai hết, Nguyễn Du với Truyện Kiều đã tạo được những “ý tại ngôn ngoại”, những “vùng mờ”, những “điểm mù”, những bí ẩn, ma mị... khiến các lý thuyết dễ biến thành “màu xám”, khiến việc tiếp nhận tác phẩm dễ theo nhiều chiều hướng khác nhau. Dĩ nhiên, khả năng vận dụng lý thuyết vào nghiên cứu những hiện tượng sáng tác cụ thể của các thiên tài, tiêu biểu như Truyện Kiều của Nguyễn Du, còn phụ thuộc vào tài năng, vốn sống, vốn văn hoá và trình độ của người nghiên cứu. Đây cũng là bài học quý giá cho người làm công tác nghiên cứu, phê bình văn học khi tiếp cận Truyện Kiều cũng như những kiệt tác khác.
Cũng cần nói thêm về vai trò, ảnh hưởng sâu sắc của Truyện Kiều đến chương trình giáo dục văn hoá – văn học trong học đường dưới bất cứ một thể chế/ chế độ xã hội nào. Trong chương trình giáo dục của các nhà trường Việt Nam, Truyện Kiều cũng đã có mặt từ sớm. Từ 1914, trong chương trình Việt văn của các trường trung học Pháp – Việt, đã xuất hiện các công trình: Việt văn hợp tuyển giảng nghĩa (Lê Thành Ý – Nguyễn Hữu Tiến), Việt Nam thi văn hợp tuyển (Dương Quảng Hàm),... Từ 1945 đến nay, Truyện Kiều bao giờ cũng giữ một vị trí xứng đáng (hàng đầu) trong học đường, từ các cấp học phổ thông đến các cấp học đại học và sau đại học... Truyện Kiều cũng đã được đưa vào chương trình dạy – học văn hoá, văn học Việt Nam ở khá nhiều trường đại học ở nước ngoài (tiêu biểu như ở Đại học Houston và Đại học De Anza, Califrnia, Hoa Kỳ). Giá trị to lớn của Truyện Kiều trong giáo dưỡng, nâng cao ý thức, tâm hồn hướng về chân – thiện – mỹ, trong nâng cao vốn văn hoá và năng lực ngôn ngữ cùng nhiều năng lực khác cho tuổi trẻ học đường là điều không thể chối cãi.
2.2. Ảnh hưởng hay là hiện tượng Parody nghệ thuật Truyện Kiều đến đời sống văn hoá-tinh thần người Việt.
2.2.1. Từ tác động của các giá trị nghệ thuật tiêu biểu của Truyện Kiều đến hiện trượng Parody (nhại) tác phẩm
2.2.1.1. Khái luận về hiện tượng Parody (nhại)
Parody (nhại) là một hiện tượng thú vị, mang tính quy luật và cũng đầy phức tạp trong sáng tác cũng như tiếp nhận văn học, nghệ thuật. Trên phương diện lý thuyết, các nhà nghiên cứu từ chủ nghĩa hình thức Nga đến M. Bakhtin; từ Gerard Genette tới Linda Hutcheon, Margaret A. Rose, Simon Dentith,... đã từng bàn đến nhiều về mục đích, chức năng, vai trò và các hình thức Parody (nhại). Nhiều quan niệm khác nhau, từng quan niệm có ưu, nhược điểm riêng...
Ở đây, chúng tôi hoàn toàn tán thành quan điểm học thuật của Hutcheon: “Parody (nhại) thực sự là một hình thức của “sự tái chế nghệ thuật” nhưng là một hình thức cực kỳ đặc biệt, có chủ ý với những văn bản phức tạp”. Bà chú ý tới hai hướng nghiên cứu Parody/nhại (hướng mở rộng quan niệm về Parody/nhại để bao gồm những sự “tái chức năng” như cách gọi của các nhà hình thức Nga), và hướng thu hẹp sự chú ý của nhại vào ý hướng: văn bản gốc của nhại luôn là một tác phẩm nghệ thuật khác, hay một hình thức khác của diễn ngôn được mã hóa”. Đặc biệt, Hutcheon phản đối xu hướng lẫn lộn hoặc đồng nhất giữa Parody (nhại) và Satire (châm biếm)([38]). Parody, chúng tôi dịch và dùng trong công trình này với nghĩa là nhại/ làm theo - học theo mẫu gốc - tái chế, để tạo nên sản phẩm mới (Rất thú vị là trong tiếng Việt có từ “nhái” = nhại, với nghĩa là tái chế, làm theo, học theo mẫu đã có)…
Parody là thủ pháp nghệ thuật bắt chước, dựa vào mẫu để tạo ra phiên bản mới có thể mang tính châm biếm, có thể mang ý nghĩa tôn vinh hay nhắc nhở về giá trị của tác phẩm gốc. Thủ pháp này có thể áp dụng cho nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau như văn học, âm nhạc, hội hoạ, phim ảnh,… Bằng cách bắt chước và biến tấu nguyên mẫu (các kiệt tác có sẵn bao giờ cũng được/ bị nhại), Parody khuyến khích sự sáng tạo và đổi mới, giúp mở rộng giới hạn của các thể loại và phong cách nghệ thuật, đồng thời tạo ra những tác phẩm mới lạ, độc đáo, mang lại niềm vui và sự giải trí cho người đọc. Parody cũng là một hình thức tôn vinh giá trị của các tác phẩm gốc. Việc tái hiện và biến tấu/ Parody một tác phẩm nổi tiếng đòi hỏi người thực hiện phải am hiểu về mẫu gốc, qua đó, có thể tôn vinh giá trị và ảnh hưởng của tác phẩm gốc. Parody giúp người đọc phát triển tư duy phản biện bằng cách đưa ra những góc nhìn khác nhau về một hoặc nhiều vấn đề trong tác phẩm mẫu gốc. Người đọc phải suy nghĩ và so sánh giữa phiên bản gốc và phiên bản Parody để hiểu được sự khác biệt và ý nghĩa của những biến tấu này.
2.2.1.2. Hiện tượng Parody (nhại) Truyện Kiều tạo thành một loại hình văn hoá Truyện Kiều hiếm có
Truyện Kiều từng đi sâu vào đời sống văn hóa của nhân dân ta dưới nhiều hình thức khác nhau: Tập Kiều, Lẩy Kiều, Ngâm Kiều, Xướng Kiều, Hoạ Kiều, Vịnh Kiều, Án Kiều, Tuồng Kiều, Trò Kiều, Vận Kiều,“Hậu Kiều”, Bói Kiều, Đố Kiều, Ru Kiều... Tất cả các hình thức đó đều thuộc hiện tượng Parody/ nhại Truyện Kiều.
Hiện tượng Parody (nhại) Truyện Kiều tạo thành một loại hình văn hoá Truyện Kiều có thể nói là có một, không hai.
Hiện tượng Parody (nhại) một tác phẩm nổi tiếng chỉ là một dạng bắt chước, mô phỏng, tái chế, “nhái” như một trò chơi vui từ văn bản gốc (hypotext), không hề làm tổn hại tới văn bản bị nhại. Truyện Kiều từng được người đương thời và người đời sau một mặt nhại theo để tạo nên sản phẩm mới, mặt khác mượn nguyên dạng (từng câu thơ, đoạn thơ hoặc một cụm từ,...) để “thay lời muốn nói” theo nhiều hoàn cảnh, tình huống khác nhau. Chính vì thế, việc Parody (nhại) hay sáng tác theo mẫu gốc ở đây không hề làm mất đi giá trị của tác phẩm gốc, mà ngược lại, càng nâng tầm ảnh hưởng rộng lớn và sức sống vĩnh hằng của kiệt tác Truyện Kiều([39]).
Hiện tượng Parody (nhại) Truyện Kiều, trên thực tế, diễn ra ở nhiều thành tố của giá trị nghệ thuật tác phẩm (ngôn ngữ, thể loại, nhân vật,...).
Sau đây, chúng tôi chỉ đi sâu, tập trung phân tích hai hướng chủ yếu trong Parody (nhại) Truyện Kiều là nhại ngôn ngữ và nhại thể loại Truyện Kiều.
2.2.2. Parody (nhại) ngôn ngữ Truyện Kiều
Từ thời trung đại, ngay sau khi Truyện Kiều ra đời, đã có hàng loạt tác giả lấy câu, chữ, chi tiết hoặc các nhân vật trong Truyện Kiều làm đề tài vịnh, lẩy Kiều, tập Kiều... Có thể kể đến các tác giả: Phạm Quý Thích, Hà Tông Quyền, Nguyễn Văn Chi, Chu Thấp Hy, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Đình Chiểu, Tôn Thọ Tường, Phan Văn Trị, Nguyễn Khuyến, Dương Lâm, Chu Mạnh Trinh, Nguyễn Đôn Phục, v.v....
Sang thời hiện đại, hiện tượng Parody (nhại) Kiều dưới các hình thức trên càng phát triển, mở rộng mạnh mẽ với nhiều tác giả tài hoa như Tản Đà, Nguyễn Bính, Hồ Chí Minh, v.v…. (Hồ Chí Minh là một trong những người vận Kiều, tập Kiều nhiều nhất: “Nỗi riêng riêng những bàn hoàn”, “Phải chăng khổ tận đến ngày cam lai”; “Đến bây giờ mới thấy đây/ Mà lòng đã chắc những ngày thanh niên”),… Hiện tượng lẩy Kiều còn được các tổng thống Mỹ vận dụng rất thành công (Tổng thống Bill Clinton, tháng 11/2000, nhân chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên sau 1975, trong diễn văn đáp từ đã lẩy 2 câu (số 1795-1796) trong Truyện Kiều: “Sen tàn cúc lại nở hoa/ Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân”; Phó Tổng thống Joe Biden, tháng 7/2015, trong đáp từ Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lần đầu tiên có chuyến thăm Hoa Kỳ, tại Nhà Trắng, đã mượn 2 câu Kiều số 3121-3122: “Trời còn để có hôm nay/ Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời”; Tổng thống Barack Obama trong bài phát biểu tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia ngày 25/5/2016, đã dẫn 2 câu Kiều số 355-356, kết thúc bài phát biểu của mình: “Rằng trăm năm cũng từ đây/ Của tin gọi một chút này làm ghi”)…
Những hiện tượng tập Kiều, lẩy Kiều như vậy một mặt cho thấy giá trị và tầm ảnh hưởng rộng lớn của Truyện Kiều, mặt khác, cũng là một cách, một con đường tạo kênh giáo lưu văn hoá và giới thiệu Truyện Kiều - Việt Nam với bạn bè trên khắp thế giới…
Trong tương lai (dự đoán), hiện tượng tập Kiều, lẩy Kiều, vận Kiều,... chắc chắn còn phát triển mạnh.
Hiện tượng Parody (nhại) ngôn ngữ Truyện Kiều, chắc chắn không phải là sự ngẫu nhiên, tuỳ hứng. Điều này càng cho thấy giá trị sâu sắc của ngôn ngữ Truyện Kiều mà chúng tôi đã có dịp khảo sát, phân tích và luận giải ở mục trước (1.2.1. Giá trị của ngôn ngữ/ tiếng Việt qua Truyện Kiều).
2.2.3. Parody (nhại) thể loại Truyện Kiều
Truyện Kiều sử dụng thể loại “kép” thuần Việt (Truyện Nôm – Lục bát), cả hai thể loại gắn với nhau trong một cấu trúc chỉnh thể. Tuy nhiên ở những tác phẩm Parody (Nhại) thể loại Truyện Kiều, có thể tách thành hai dạng để khảo sát, nhất là về thi pháp thể loại. Thứ nhất, Parody (Nhại) thể loại Truyện/ Truyện thơ, gồm một số Truyện thơ Nôm và một số Truyện thơ Quốc ngữ (các Truyện thơ Nôm và Truyện thơ Quốc ngữ đều gắn với lục bát, dưới hình thức lục bát). Thứ hai, Parody (Nhại) thể loại Thơ/ lục bát (bao hàm lục bát trong các tác phẩm nhại là thể loại “kép”/ truyện – thơ, và lục bát trong các tác phẩm nhại không thuộc thể loại “kép”/ truyện – thơ).
Về Parody (Nhại) thể loại Truyện/ Truyện thơ: Từ cuối thời trung đại đến thế kỷ XX, xuất hiện hiện tượng truyện “hậu Truyện Kiều” với hàng loạt tác phẩm: Đào hoa mộng ký của Mộng Liên Đình (tức Mộng Liên Đường) với khoảng 3000 câu lục bát; Đào hoa mộng ký diễn ca (tên gọi khác: Kim Vân Kiều hậu thân) của Hà Đạm Hiên (?- ?) với 1910 câu;…
Sang thời hiện đại, xuất hiện Kiều tân thời (hài văn) của Bạch Diện, 304 câu, phỏng theo Truyện Kiều, viết với cảm hứng trào lộng, châm biếm các thói xấu của hiện thực xã hội những năm 30 của thế kỷ XX; Kiều bình dân học vụ của Nguyễn Văn Trinh với 2050 câu, viết với mục đích cổ vũ phong trào bình dân học vụ; Đoạn trường vô thanh (1972) của Phạm Thiên Thư với 3296 câu, viết tiếp Truyện Kiều sau màn tái hồi Kim Trọng; Đoạn trường nhất thanh của Trần Thanh Vân, viết tiếp Truyện Kiều từ khi Từ Hải gặp Hồ Tôn Hiến, 1082 câu; Truyện Kiều đọc ngược của Phạm Đan Quế, xếp ngược lại 3254 câu trong Truyện Kiều của Nguyễn Du (Nxb Thanh niên, 2002).
Điều rất đáng chú ý và lấy làm lạ là, sang thời hiện đại, truyện văn xuôi (bao hàm cả truyện ngắn, truyện dài và tiểu thuyết) là thể loại chủ lực của văn xuôi hiện đại, phát triển mạnh với tốc độ và vị thế áp đảo, vậy mà truyện thơ “hậu Truyện Kiều” vẫn phát triển. Vì sao vậy? Điều này chỉ có thể lý giải từ giá trị điển phạm và sức hấp dẫn của Truyện Kiều (ngay mới chỉ nhìn ở một mặt của thể loại tác phẩm). Truyện thơ “hậu Truyện Kiều”, về thi pháp thể loại (tức nghệ thuật thể hiện), nhìn chung không có gì thật đặc sắc, vẫn thua xa mẫu mà nó Parody (nhại) theo.
Về Parody (Nhại) thể loại Thơ (Lục bát) Truyện Kiều: Lục bát sau Truyện Kiều (bao hàm cả lục bát trong các tác phẩm thuộc thể loại “kép” truyện thơ – lục bát như vừa nêu trên([40]), và lục bát trong các tác phẩm không thuộc thể loại “kép”/ truyện – thơ) càng phát triển hơn bao giờ hết. Cả hai “loại” lục bát ấy, về thi pháp thể loại, vẫn chịu ảnh hưởng của lục bát Truyện Kiều. Điều quan trọng nhất chúng tôi muốn làm rõ ở đây là Giá trị nghệ thuật và ảnh hưởng của lục bát Truyện Kiều đối với thể loại thơ này về sau.
Lục bát Truyện Kiều vừa là mô hình chuẩn làm chỗ dựa, vừa là thử thách làm mới thể loại cho lục bát về sau.
Lục bát sau Truyện Kiều của Nguyễn Du, đến khoảng giữa thế kỷ XIX, ngoài một bộ phận sáng tác còn “cộng sinh” với truyện Nôm, một số trường hợp đã bắt đầu tồn tại với tư cách là một thể tài độc lập. Nguyễn Công Trứ (1778-1858) với hai bài Vô đề và Vịnh cây thông là người mở đầu, báo hiệu xu thế tồn tại tự mình, cho mình của lục bát, để sau đó đến lượt các tác giả Trần Tế Xương (với Sông lấp, Đi hát mất ô); Chu Mạnh Trinh (với Hương Sơn hành trình, Hương Sơn nhật trình), v.v... Khảo sát tất cả các tác phẩm thơ lục bát vừa nêu trên (còn thuộc phạm trù trung đại), thấy, về thi pháp thể loại (bằng, trắc, vần, nhịp,…), so với lục bát Truyện Kiều, lục bát trong những Vô đề, Vịnh cây thông, Sông lấp, Đi hát mất ô, Hương Sơn hành trình, Hương Sơn nhật trình,… không có gì thay đổi, đột biến. Cái thay đổi so với lục bát Truyện Kiều chỉ là thay đổi về nội dung thể loại (lục bát thuần tuý).
Bước sang thời hiện đại (trong bối cảnh của hệ thống thể loại văn học hiện đại với “bộ tứ” trung tâm là thơ tự do, truyện (bao hàm cả truyện ngắn, truyện, truyện vừa, truyện dài và tiểu thuyết), ký, kịch, trong xu thế phân hoá, chuyên môn hoá về thể loại ngày càng cao), chức năng và nội dung thể loại của Lục bát có nhiều biến đổi, thậm chí là biến đổi sâu sắc (chức năng và nội dung tự sự/ kể chuyện giảm dần vì truyện thơ Nôm đã hết vai trò lịch sử; các chức năng và nội dung khác như thông báo, trữ tình, trào lộng, thư giản,... được bổ sung, tăng cường). Riêng về thi pháp thể loại của lục bát cũng có những cách tân, đổi mới, nhưng những “mặc định” cơ bản của lục bát Truyện Kiều vẫn sừng sững giá trị. Người làm thơ lục bát hiện đại hầu như “chạy trời không khỏi nắng” vì ánh rọi của lục bát Truyện Kiều (Nguyễn Du) trên đầu!...
Sang thời hiện đại, lục bát phát triển theo ba khuynh hướng chính. Một khuynh hướng tiếp tục con đường truyền thống, tìm về những nội dung dân tộc, bản địa như cách nói của Đồng Đức Bốn: trở về với mẹ ta thôi (lục bát Tản Đà, Nguyễn Bính, Huy Cận, Tố Hữu, Nguyễn Duy,...). Một khuynh hướng tìm đến những nội dung hiện đại với vô vàn biểu hiện của cái tôi cá nhân cá thể trong một thế giới đầy biến ải trầm luân, “bất khả tri” (tiêu biểu là lục bát Bùi Giáng). Một khuynh hướng tìm đến những nội dung trào lộng, giễu nhại (khuynh hướng “bút tre”)... Tương ứng với các khuynh hướng tìm tòi, bổ sung cho lục bát ở phương diện chức năng và nội dung ấy (cái mới cơ bản của lục bát sau Truyện Kiều) là những cố gắng cách tân, “làm mới” thể loại ở một vài khía cạnh của thi pháp (nghệ thuật thể hiện). Rất đáng trân trọng những cách tân, làm mới lục bát về thi pháp của nhiều nhà thơ hiện đại tài hoa (Chẳng hạn như Nguyễn Bính tạo ra sự nghịch chuẩn ở tiếng thứ 4 câu lục: Hồn anh như hoa cỏ may/ Một chiều cả gió bám đầy áo em (Hoa cỏ may),... hoặc ở tiếng thứ 2 cũng câu lục: Úp mặt vào hai bàn tay/ Chị tôi khóc suốt một ngày một đếm (Lỡ bước sang ngang); hay Tố Hữu, Huy Cận, Bùi Giáng, Nguyễn Duy, Hoàng Xuân Sơn, v.v... cũng từng tạo ra đa dạng các loại nhịp). Nhưng, những sáng tạo ấy đã từng xuất hiện trong Truyện Kiều.
Lục bát cho phép các biến thể (số tiếng có thể tràn ra ngoài khung 6/8; có thể vần thả/ gieo là thanh trắc ở câu lục và vần bắt/ hiệp cũng là thanh trắc ở câu bát; có thể vần bắt/ hiệp ở vị trí tiếng thứ 4 câu bát;...). Những biến thể này chỉ có thể dùng cho những bài thơ ngắn/ một cặp câu hoặc một số cặp câu lục bát (chủ yếu là trong ca dao). Lục bát cũng chấp nhận một số biến thức. Loại biến thức xuất hiện nhiều nhất là tách dòng, tách từ (kiểu Bút Tre: Anh đi công tác đảo Côn/ Lôn em ở lại xóm thôn vui vầy). Loại biến thức này cũng chỉ có thể dùng cho những bài thơ ngắn (một cặp câu hoặc một số cặp câu lục bát), và cũng chủ yếu là để trào lộng, thư giản, “Mua vui cũng được một vài trống canh”. Một số dạng biến thức khác như chấm câu giữa dòng, chẳng hạn:
Trời cao, xanh ngắt. Ô kìa
Hai con hạc trắng bay về Bồng lai
(Tiếng sáo Thiên Thai - Thế Lữ)
Hay tách dòng, tạo câu thơ bậc thang, chẳng hạn:
Chỉ còn cỏ mọc bên trời
Một bông hoa nhỏ
Lặng
Rơi
Mưa
Dầm…
(Không đề - Nguyễn Trọng Tạo)
Những biến thể, biến thức trên đây (trừ các biến thức chấm câu giữa dòng hay tách dòng, tạo câu thơ bậc thang, văn bản chữ Nôm thời đại Nguyễn Du không cho phép), dĩ nhiên Nguyễn Du không thể áp dụng trong Truyện Kiều vì nếu xuất hiện, nó sẽ phá vỡ cấu trúc của tác phẩm. Nguyễn Du có thể tự giác hoặc không tự giác ý thức về điều này, nhưng trực giác nghệ thuật thần tình đã mách bảo cho ông tất cả. Thực tế là ông đã không dùng biến thể, biến thức (vì như đã nói ở trên). Và ông đã hoàn toàn làm chủ thể loại, đưa lục bát đến trình độ điển phạm, mãi mãi là chuẩn mực hoàn hảo.
Cách tân, làm mới lục bát ở phương diện thi pháp thể loại là vấn đề vô cùng khó. Một mặt, do tính cách luật, “bảo thủ” của thể loại; mặt khác, dường như “lục bát có cái gì hay, cụ Nguyễn Tiên Điền đã vớt hết cả rồi” (Nguyễn Khuyến)?. Tính “bảo thủ” và khả biến của lục bát, mẫu hình điển phạm của lục bát Truyện Kiều vẫn luôn luôn là thử thách lớn đồng thời là bài học và cơ hội cho những tìm tòi, sáng tạo của thơ ca Việt Nam hiện đại...
Trong tương lai (dự đoán), hiện tượng Parody (nhại) Truyện Kiều trên nhiều phương diện/ thành tố, đặc biệt là nhại ngôn ngữ, nhại thể loại, nhại nhân vật sẽ còn phát triển mạnh mẽ, giúp cho văn hoá – văn học Việt Nam càng thêm phong phú và giữ được bản sắc của mình...
2.1.2. Ảnh hưởng mang tầm quốc tế - nhân loại của Truyện Kiều
Truyện Kiều – kiệt tác hàng đầu được chuyển ngữ (dịch thuật) sang các thứ tiếng nước ngoài. Cho đến 2020, Truyện Kiều đã được dịch ra hơn 20 thứ tiếng([41]) với hơn 70 bản dịch (tiêu biểu như ở Anh: 18 bản, Pháp: 12 bản, Trung: 11 bản, Nhật: 5 bản, Nga: 3 bản). Việc Truyện Kiều được nhiều quốc gia, dân tộc chọn dịch sang tiếng nước mình cho thấy sức hấp dẫn và giá trị lớn lao của một tác phẩm kinh điển của Việt Nam. Cũng từ đây, tầm vóc, vị thế của tiếng Việt, văn hoá Việt ngày càng được nâng cao, lan toả trên trường quốc tế...
Tại Trung Quốc, nhiều học giả không chỉ có dịch Truyện Kiều của Nguyễn Du sang tiếng Trung mà còn đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu, giới thiệu Truyện Kiều với nhân dân Trung Quốc. Tiêu biểu như các tác giả: Hoàng Dật Cầu, La Trường Sơn, K.C. Leung, Lưu Thế Đức, Lý Tu Chương, Lý Văn Hùng Triệu Ngọc Lan, v.v… Triệu Ngọc Lan đã chỉ ra những đặc điểm độc đáo, tinh tế trong ngôn ngữ Truyện Kiều của Nguyễn Du. Lý Văn Hùng gọi Truyện Kiều (Nguyễn Du, Việt Nam) là “Đệ nhất văn nghệ kỳ thư” với “lối văn hàm súc”, là “văn chương của bậc tiên, bậc thánh”. Lưu Thế Đức và Lý Tu Chương so sánh Truyện Kiều của Nguyễn Du với Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, hai ông đều nhận thấy những cải biến, sáng tạo mới của Nguyễn Du và khẳng định “với khả năng nghệ thuật thiên tài, Nguyễn Du đã sáng tạo nên một tác phẩm tuyệt mỹ và hoàn chỉnh mới bằng thể thơ lục bát, thể thơ độc đáo riêng có của dân tộc Việt Nam”.
Tại Nhật Bản, Truyện Kiều từng được Komatsu Kiyoshi, sau đó là Takeuchi Yonosuke dịch sang tiếng Nhật và giới thiệu khá rộng rãi, đặc biệt, bản dịch Truyện Kiều của Takeuchi Yonosuke được in thành sách và đưa vào chương trình giảng dạy ở một số trường đại học về văn học phương Đông và văn học Việt Nam. Tại Hàn Quốc, Ahn Kyong Hwan (trường Đại học Youngsan) đã dịch Truyện Kiều sang tiếng Hàn (bằng thể thơ Sijo - thể thơ cổ của Hàn Quốc). Có thể nói, “Việc dịch và giới thiệu Truyện Kiều đã trở thành một sự kiện văn hoá của năm 2004 ở Hàn Quốc”([42]).
Tại Đài Loan, rất đáng chú ý là Trần Ích Nguyên – người đã từng có quá trình nghiên cứu chuyên sâu về Truyện Kiều. Theo Trần Ích Nguyên, “Điều thú vị là Truyện Kim Vân Kiều của Nguyễn Du mượn đề tài tiểu thuyết chữ Hán, sau khi nổi tiếng hơn người đi trước thì nhân sĩ Việt Nam lại dịch trở lại thành nhiều bản bằng chữ Hán”… Ông “dẫn theo Lâm Thìn” ý kiến của một học giả Trung Quốc, rằng: “Nhân vật, cốt truyện, tình tiết của Truyện Kim Vân Kiều bằng văn Nôm hoàn toàn vay mượn từ Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc… Nhưng khi Truyện Kim Vân Kiều bằng chữ Nôm bước lên giảng đàn trường Đại học Trung Quốc với tư thái là tác phẩm văn học nổi tiếng thế giới thì nguyên tác Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc chẳng những bị bụi bặm chôn vùi, mà còn mai một, chẳng ai hay biết. Đó thực sự là một việc quái lạ khiến người ta phải suy nghĩ sâu sắc”([43]).
Tại châu Âu, ảnh hưởng của giá trị nghệ thuật Truyện Kiều cũng được lan toả ở nhiều nước: Nga (từ các bản dịch và giới thiệu của các tác giả: N.I. Niculin, M.Tcachiov, T.N.Philimonova,…); Tiệp Khắc (Gustav Franck, 1958); Rumani (1967); Hungari (dịch giả Trương Đăng Dung, 1984); Đức (Franz Faber và Irène, Johan Dichman);... Theo Johan Dichman, với Truyện Kiều, “độc giả Đức tìm thấy một thế giới văn học mà cho tới nay họ chưa từng biết tới: trước mắt họ, thấm nhuần trong Truyện Kiều là cả một kho tàng nhân văn, đỉnh cao tuyệt vời của nền văn hoá dân tộc Việt Nam”.
Ở Pháp, qua các bản dịch và giới thiệu của các tác giả: Abel des Michel (người dịch Truyện Kiều đầu tiêng sang tiếng Pháp, 1884), Emond Nordenmann (1887), René Crayssac (1926), L. Masse (1926), Georges Coocdier, H.Maspero, Duymuchie, Joocjo Budaren… Joocjo Budaren đánh giá Truyện Kiều của Nguyễn Du “là một bản trường ca kỳ lạ, nghịch đời, hấp dẫn và hiếm có”; ông so sánh thơ lục bát Truyện Kiều với thơ haiku của Nhật Bản, và nhận thấy “thơ lục bát Truyện Kiều có phần tinh tế hơn”. René Crayssac nhận xét: “Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du thật là văn chương kiệt tác”, “những kiệt tác văn chương của bất cứ đời nào, nước nào cũng không thua vậy”([44]). Georges Boudarel nhận xét: “Trên thế giới, ít nhà thơ tìm thấy được ngay giữa lòng nhân dân nước mình một tiếng vang lớn như nhà thơ Nguyễn Du của Việt Nam. Truyện Kiều của ông là cuốn sách kinh điển trong văn học Việt Nam nhưng là thứ kinh điển mà mọi người đều biết, không sót một ai”([45]).
Từ những năm 70 của thế kỷ XX, Truyện Kiều được dịch sang tiếng Anh (do Huỳnh Sanh Thông, giảng viên đại học Yale) và được xuất bản tại Mỹ (Nxb Đại học Yale, 1973; tái bản1983), giới nghiên cứu phương Tây mới biết đến và càng ngày càng chú ý hơn đến Truyện Kiều. John Swensson xác định: “Muốn tìm hiểu con người Việt Nam thì phải tìm hiểu Truyện Kiều”… Truyện Kiều cũng đã được dịch (và giới thiệu) sang tiếng Tây Ban Nha. Felich Pita Rodriget - nhà văn Cu Ba đã nhận xét rất đúng, rằng: “Đáng tiếc là sự đẹp đẽ về hình thức, những giá trị biểu hiện tinh vi, nhạc điệu diệu kỳ của một trong những ngôn ngữ nhiều chất thơ nhất, đã không còn nữa khi người ta chuyển nó qua một ngôn ngữ khác và chúng ta đành phải bằng lòng với một hình bóng rất xa với nguyên bản”([46]).
Nguyễn Du với khối di sản của mình đặc biệt là Truyện Kiều có giá trị lớn về nhiều phương diện, đã được UNESCO ghi danh (Great Pernality/ danh nhân, nhân cách vĩ đại) và tham gia kỷ niệm 250 năm sinh vào 2015. Từ đó đến nay, tầm ảnh hưởng tích cực của các giá trị của Truyện Kiều, vốn đã sâu rộng càng trở nên sâu rộng hơn, giải phổ ảnh hưởng thực sự có tính chất toàn cầu. Đặt Truyện Kiều của Nguyễn Du bên cạnh những kiệt tác của những văn hào, thi hào kiệt xuất của thế giới (tiêu biểu như Eugene Onegin – Puskin của Nga, Faust - Johann Wolfgang von Goethe của Đức, Hamlet - William Shakespeare của Anh;…), người nghiên cứu càng có điều kiện để tìm ra những tương đồng và khác biệt trong giá trị di sản mà họ để lại cho dân tộc mình và nhân loại…
Chương 3.
GIẢI PHÁP BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY NHỮNG GIÁ TRỊ TIÊU BIỂU CỦA TRUYỆN KIỀU Ở GÓC ĐỘ GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT
1. Mục đích, yêu cầu:
Những giá trị của Truyện Kiều, như chúng tôi đã giới thuyết và tập trung làm rõ ở Chương 1 và Chương 2. Chương 2 đã khảo sát, phân tích, luận giải và khẳng định ba giá trị tiêu biểu của Truyện Kiều ở góc độ giá trị nghệ thuật: 1, Ngôn ngữ và nghệ thuật tổ chức ngôn ngữ; 2, Thể loại và nghệ thuật vận dụng, sáng tạo thể loại thuần Việt; 3, Nghệ thuật tự sự và trữ tình gắn với phân tích tâm lý nhân vật. Đấy là những giá trị từng được quan tâm trong lịch sử tiếp nhận của xã hội. Song vấn đề của chúng ta ngày nay là cần tiếp tục nghiên cứu và tìm ra các giải pháp bảo tồn và phát huy chúng theo những mục đích, yêu cầu cụ thể:
Thứ nhất, nghiên cứu và tìm các giải pháp bảo tồn và phát huy những giá trị nghệ thuật tiêu biểu của Truyện Kiều ở góc độ giá trị nghệ thuật, không chỉ nhằm khẳng định vai trò của Nguyễn Du và tính tiên phong của Truyện Kiều trong văn hóa, văn học Việt Nam, mà quan trọng hơn là bổ sung, làm giàu cho hệ giá trị của văn hoá, văn học Việt Nam, cũng từ đây rút ra những bài học hữu ích cho việc sáng tạo các giá trị văn hoá, văn chương đương đại.
Bảo tồn và phát huy những giá trị nghệ thuật tiêu biểu của Truyện Kiều, yêu cầu trước tiên, xuyên suốt là giữ nguyên các giá trị ấy, đồng thời làm cho các giá trị ấy lan tỏa, mở rộng tri thức tiếp nhận và đổi mới cách hưởng thụ văn hóa của nhân dân.
Thứ hai, tiếp nhận các giá trị tiêu biểu của Truyện Kiều ở góc độ giá trị nghệ thuật chịu sự chi phối của kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội theo từng giai đoạn lịch sử. Thời hiện đại với sự phức tạp của tư tưởng, tình cảm mỗi cá nhân do tác động đa chiều của “những phương thức sản xuất và sở hữu, những của cải vật chất, những hình thái tổ chức, những tín ngưỡng và những đau khổ, những sự nghiệp đang làm và những giải trí, ước mơ, khát vọng” (lời Amadou Mbow, nguyên Tổng Giám đốc UNESCO) thì cách tiếp nhận các giá trị di sản trở nên đa dạng, phức tạp. Vì vậy, giải pháp bảo tồn và phát huy những giá trị tiêu biểu của Truyện Kiều ở góc độ giá trị thuật phải đặt trong sự tác động của các mối quan hệ với tư tưởng thẩm mỹ, tâm lý, tình cảm của con người ở thế kỷ XXI.
Thứ ba, từ khi ra đời đến nay không tính hết những lời bàn luận, phẩm bình về nghệ thuật Truyện Kiều và theo thời gian vẫn tiếp tục có thêm những khám phá, phát hiện hiện diện hàm lượng tình cảm và trí tuệ mới, tác động đến mạch tư duy truyền thống vốn có đối với Truyện Kiều. Vì vậy, các giải pháp phải hướng tới những giá trị nghệ thuật của Truyện Kiều đã được bàn luận, đồng thuận và cả những phát hiện, khám phá mới, những tồn nghi, những vấn đề đang có các quan điểm, đánh giá, bình luận khác nhau.
Thứ tư, nghiên cứu tìm giải pháp bảo tồn và phát huy những giá trị nghệ thuật tiêu biểu của Truyện Kiều ở góc độ giá trị nghệ thuật, phải đi cùng với các giải pháp bảo tồn, phát huy những giá trị nội dung tư tưởng của Truyện Kiều (vì tác phẩm là một hệ thống, cấu trúc chỉnh thể, có sự thống nhất tuyệt vời giữa hai phương diện nội dung và hình thức).
Thứ năm, các giải pháp bảo tồn và phát huy những giá trị tiêu biểu của Truyện Kiều ở góc độ giá trị nghệ thuật phải mang tính khả thi, phải tạo được những chuyển biến mới trong tiếp nhận của xã hội; và từ đấy, tạo thêm niềm tin, sự hứng phấn mới cho người dân về truyền thống văn hóa của dân tộc.,
2. Cơ sở xây dựng giải pháp:
2.1. Luật Di sản Văn hóa: Chúng ta đã có Luật Di sản văn hóa (năm 2001, được sửa đổi, bổ sung năm 2009([47]); từ tháng 5-2023, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch lại có Tờ trình Dự án Luật Di sản văn hóa (sửa đổi), trong đó có Chương V là chương mới về Bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu… Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã có nhiều hoạt động nhằm bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá của cha ông, góp phần to lớn vào việc bảo vệ và xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc([48]).
UNESCO trong Tuyên bố toàn cầu về đa dạng văn hóa cũng đã nêu rõ: “Di sản ở mọi hình thức của nó phải được bảo tồn, phát huy và truyền thụ cho các thế hệ tương lai như là cơ sở dữ liệu lưu lại kinh nghiệm và những khát vọng của con người, nhằm tăng cường tính sáng tạo với tất cả sự đa dạng của nó và truyền cảm hứng cho cuộc đối thoại giữa các nền văn hóa”.
2.2. Chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về bào tồn và phát huy giá trị của Di sản Văn hóa::
Giai đoạn lịch sử ta đang sống đầy biến động, thách thức. Xu thế toàn cầu hóa và hội nhập với sự phát triển khoa học công nghệ phá vỡ mọi biên giới ngăn cách dân tộc. Một cuộc xâm nhập sâu rộng về văn hóa từ nhiều nguồn đang diễn ra dưới rất nhiều hình thức thông qua báo chí, văn học, dịch thuật, đầu tư, xuất nhập khẩu, du lịch, giao lưu, hội thảo… tác động mạnh mẽ vào tư tưởng, tình cảm, tâm lý, thói quen, lẽ sống và cách sống của người dân. Tiếp biến văn hóa, xâm lăng văn hóa, bổ sung văn hóa, đa dạng các nền văn hóa…là những vấn đề hiện hữu hàng ngày trên mọi lĩnh vực đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa- xã hội, an ninh quốc phòng.
Trước bối cảnh ấy, công việc nghiên cứu, định hướng các giải pháp bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trở thành yêu cầu cấp thiết, mối quan tâm hàng đầu của Đảng và toàn thể xã hội.
Ngay từ năm 1943, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xây dựng bản Đề cương về văn hóa Việt Nam, cho thấy tầm quan trọng của văn hóa cũng như quan niệm về cách mạng văn hóa của Đảng. Năm 1946, tại Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rõ quan điểm của người và Đảng: ”Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, năm 2011, và Nghị quyết số 33-NQ/TW 2014 của Ban chấp hành TW Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước, một trong những mục tiêu quan trọng mà Đảng ta nhấn mạnh là: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”[49].
Năm 2020, Bộ Chính trị khóa XII thông qua Kết luận số 76-KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, đã khẳng định, phát triển văn hóa ngày càng gắn bó hơn với xây dựng con người Việt Nam, từng bước trở thành một trong những nguồn lực quan trọng của sự nghiệp phát triển bền vững và hội nhập kinh tế quốc tế.
Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc, năm 2021,Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh vai trò và vị trí của văn hóa: ”Văn hóa là hồn cốt của dân tộc, nói lên bản sắc của dân tộc. Văn hóa còn thì dân tộc còn”.
Ngày 8/11/2022 Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 1363/QĐ-TTg về việc phê duyệt Quy hoạch tỉnh Hà Tĩnh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Quy hoạch đã xác định bốn nền tảng chính tạo đột phá cho phát triển: 1) Nguồn lực văn hóa và con người Hà Tĩnh;/ 2) Chuyển đổi số;/ 3) Cơ sở hạ tầng đồng bộ / 4) Đổi mới và hoàn thiện thể chế, tạo môi trường kinh doanh hiện đại và minh bạch.
Đặc biệt, Quy hoạch đã nhấn mạnh đến mối liên kết giữa hai nguồn lực con người và văn hóa. Do vậy, để tạo cơ sở cho sự phát triển của văn hóa và con người, việc phát huy vai trò và ảnh hưởng xã hội của danh nhân Nguyễn Du và Truyện Kiều có ý nghĩa rất quan trọng.
2.3. Vị trí và vai trò những giá trị tiêu biểu của Truyện Kiều ở góc độ giá trị nghệ thuật
Truyện Kiều - Nguyễn Du là Di sản văn hóa vô giá của Dân tộc. Về giá trị nghệ thuật tiêu biểu của Truyện Kiều “Văn chương tuyệt phẩm của nước Nam ta” vượt xa vô luận tác phẩm nào trong lịch sử văn chương Việt Nam, có ảnh hưởng sâu sắc tới văn chương các thời đại. Di sản Truyện Kiều thể hiện rõ bản sắc văn hóa dân tộc không chỉ thời đại Nguyễn Du sống mà cả các thời sau này. . “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn” (Phạm Quỳnh)
Trong suốt hơn hai thế kỷ qua, ''Truyện Kiều'' đã trở thành cuốn sách "gối đầu giường, thậm chí thành cuốn "thánh kinh" của người Việt và là đỉnh cao nhất của văn hóa Việt Nam, của văn học dân tộc. Thiên tuyệt bút này của Nguyễn Du là sự kết tinh tinh hoa của cả quá trình mấy trăm năm hình thành và phát triển nền văn học cổ điển viết bằng ngôn ngữ dân tộc và được xem là hòn đá tảng, đặt nền móng cho sự phát triển của nghệ thuật văn học dân tộc về sau. Văn học Việt Nam và cả văn học thế giới, có không nhiều tác phẩm chinh phục được tình cảm của đông đảo người đọc đến như vậy.
2.4. Nguyện vọng tha thiết của nhân đân:
Từ lâu đời, Truyện Kiều với những giá trị tiêu biểu của nó là nguồn sữa nuôi dưỡng tâm hồn, niềm tin yêu, ước mơ, khát vọng, làm giàu có thêm đời sống văn hóa tinh thần của con người. Bảo tồn và phất huy những giá trị nghệ thuật tiêu biểu của Truyện Kiều không chỉ là nguyện vọng tha thiết của nhân dân Việt Nam mà còn là nguyên vọng của nhân dân nhiều nước trên Thế giới.
Từ mục đích yêu cầu, cơ sở lý luận và thực tiễn, để cụ thể hóa các giải pháp bảo tồn và phát huy các gía trị tiêu biểu của Truyện kiều ở góc độ giá trị nghệ thuật một cách hiệu quả trong quá trình thực hiện, chúng tôi gom các giải pháp vào ba nhóm: Nhóm giải pháp kinh tế - xã hội, nhóm giải pháp văn hóa và nhóm giải pháp chuyên ngành. 3. Các nhóm giải pháp, giải pháp bảo tồn và phát huy những giá trị tiêu biểu của Truyện Kiều ở góc độ giá trị nghệ thuật:
3.1. Nhóm giải pháp Kinh tế - xã hội
3.1.1. Chính sách kinh tế - xã hội
Các chính sách về kinh tế, không chỉ đơn thuần kinh tế mà phải bao hàm các đặc trưng văn hóa, văn hóa trong và của kinh tế, kinh tế trong văn hóa. Kinh tế không tự mình phát triển nếu thiếu nền tảng văn hóa và văn hóa không là sản phẩm thụ động của kinh tế. Phát triển trên cơ sở kết hợp hài hòa văn hóa và kinh tế là một sự phát triển năng động, có hiệu quả và vững chắc nhất. Giải pháp kinh tế xã hội được xây dựng trên các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Khi đưa ra một chủ trương chính sách kinh tế phải quan niệm đấy là một chủ trương chính sách có văn hóa. Thực hiện giải pháp kinh tế xã hội cho việc bảo tồn, phát huy những giá trị nghệ thuật của Truyện Kiều là trực tiếp và gián tiếp góp phần nâng cao tình cảm, tư tưởng, trình độ thẩm mỹ, tri thức, đạo đức của người dân, nâng cao nền tảng văn hóa tinh thần xã hội.
Để bảo tồn và phát huy hữu hiệu những giá trị nghệ thuật Truyện Kiều, cần phải có các chính sách, chế độ cụ thể.
Thứ nhất, Chính sách gắn di sản Nguyễn Du, Truyện Kiều với các hoạt động kinh tế nhằm khai thác tiềm năng kinh tế, tài chính hỗ trợ cho công tác bảo tồn và phát huy những giá trị Nghệ thuật Truyện Kiều, bảo đảm cho Di sản của Nguyễn Du - Truyện Kiều thể hiện rõ vai trò động lực trong các hoạt động kinh tế.
Thứ hai, Chính sách mở rộng cơ chế hoạt động kinh đoanh dịch vụ cho các Doanh nghiệp Du lịch. Xây dựng các giá trị nghệ thuật Truyện Kiều thành sản phẩm Du lịch như: Tranh minh họa Truyện Kiều; Không gian diễn xướng các thể tài văn hóa dân gian: Trò Kiều, Tập Kiều, Lẩy Kiều, Bình Kiều, Đố Kiều, Vịnh Kiều, Bói Kiều… Các chương trình ca kịch, dân ca, ví giặm và những vở tuồng, chèo, cải lương chuyển thể Truyện Kiều. Các sản phẩm mang đặc trưng văn hóa riêng này có ảnh hưởng, tác động mạnh mẽ thu hút khách thập phương ở các điểm, các tua tuyến Du lịch. Cần xác định, để xây dựng được một sản phẩm nghệ thuật về Truyện Kiều thành sản phẩm du lịch đòi hỏi nhiều yếu tố: cơ sở vật chất như đường giao thông, điện thắp sáng, nước sạch, hệ thống dịch vụ, chất lượng các loại hình, thể tài văn hóa, văn học cùng nguồn lực con người. Vì vậy, phải tuyên truyền, khuyến khích sự ủng hộ của công đồng dân cư, tạo sự hài hòa trong các chính sách kinh tế về đầu tư phát triển.
Thứ ba, Chính sách tài trợ, đặt hàng đối với điện ảnh, âm nhạc, hội họa, sân khấu… giới thiệu Nguyễn Du và Truyện Kiều; đồng thời đầu tư trực tiếp cho các văn nghệ sĩ, nghệ nhân dân gian, kịch tác gia, đạo diễn sân khấu, sáng tác, dàn dựng, công diễn các thể tài văn hóa dân gian, các tác phẩm nghệ thuật về Truyện Kiều nhằm tăng cường khả năng lan tỏa sâu rộng những giá trị nghệ thuật Truyện Kiều.
Thứ tư, Quy định chế độ cho một số cơ quan hành chính sự nghiệp, hội, đoàn, doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ bảo tồn và phát huy những giá trị nghệ thuật Truyên Kiều: Thư viện, Rạp chiếu bóng, Hiệu sách, Khu vui chơi giải trí, Nhà xuất bản, Đài Phát thanh Truyền hình, Hội văn học nghệ thuật, Trung tâm văn hóa thông tin và triển lãm, Công ty Phát hành sách, Nhà văn hóa Thiếu nhi Thành phố… được hưởng mức thuế ưu đãi trong hoạt động kinh doanh thực hiện nội dung bảo tồn và phát huy nhưng giá trị nghệ thuật Truyện Kiều.
Thứ năm, Cho phép các Tạp chí, Đặc san, Báo, trang Webste Văn hóa, VHNT, Phát thanh, Truyền hình, mở thêm chuyên mục, tăng trang, tăng thời lượng thực hiện nội dung bảo tồn và phát huy những giá trị nghệ thuật tiêu biểu của Truyện Kiều.
Thứ sáu, Có chính sách khen thưởng những tác giả có cống hiến, những tài năng trẻ, lực lượng chuyên nghiệp và phong trào quần chúng có thành tích thực hiện nhiệm vụ bảo tồn và phát huy những gia trị nghệ thuật tiêu biểu của Truyện Kiều.
3.1.2. Chính sách quản lý kinh tế - xã hội
Truyện Kiều từng tồn tại, có giá trị xuyên thời đại, giữ một vị trí xứng đáng trong nền văn hóa Việt Nam “đậm đà bản sắc”, trở thành sức mạnh nội sinh, thành động lực cho phát triển kinh tế. Vì vậy khi xây dựng một chủ trương, chính sách kinh tế xã hội cần xác lập yêu cầu văn hóa của nó để bảo đảm hiệu quả bồi dưỡng tâm hồn, nâng cao tri thức cho người dân.
Một là, Chính sách đầu tư: Xây dựng văn hóa Hà Tĩnh tiên tiến, đậm đà bản sắc theo nội dung Nghị quyết TW 5 (KhóaVIII) và Nghị quyết XI của Đảng bộ Hà Tĩnh là nhiệm vụ quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng. Bảo tồn và phát huy những giá trị nghệ thuật Truyện Kiều đòi hỏi sự đầu tư của nhà nước cho các thiết chế văn hóa như: Thư viện, Bảo tàng, Khu Di tich Nguyễn Du, Nhà hát Nghệ thuật Truyền thống, Trung tâm Quảng bá, xúc tiến Văn hóa, Du lịch, các Trung tâm văn hóa Thành phố, Huyện, thị..
Hai là, Đầu tư kinh phí mua sắm trang thiết bị âm thanh, ánh sáng, trang phục, đạo cụ cho không gian diễn xướng các thể tài văn hóa dân gian: Trò Kiều, Bói Kiều, Vịnh Kiều, Tập Kiều, Lẩy Kiều… Đồng thời đầu tư cho các trí thức văn nghệ sĩ nghiên cứu giá trị văn hóa nghệ thuật Truyện Kiều thực hiện các phương thức diễn dịch bác học: Chuyển ngữ, tái tạo văn bản Truyện Kiều trong các ngữ cảnh khác, các hệ thống ký hiệu khác như hội họa, điêu khắc, âm nhạc, điện ảnh, sân khấu…
Mọi sự đầu tư nói trên cần phải có quy hoạch, chương trình, kế hoạch ngắn hạn, trung hạn và dài hạn của các cấp quản lý nhà nước và là một nội dung trong việc thực hiện Đề án “Nghiên cứu, tìm hiểu những giá trị tiêu biểu của Truyện Kiều” của Quỹ bảo tồn và phát huy giá trị di sản Nguyễn Du, Truyện Kiều.
3.2. Nhóm giải pháp Văn hóa
3.2.1. Khái quát
Giá trị nghệ thuật của Truyện Kiều (cũng có người gọi là “giá trị văn chương” như Hoài Thanh, Thích Nhất Hạnh([50])) là điều mà trước đây, từ 1949, Hoài Thanh từng ao ước “sẽ có một công trình đặc biệt” tìm hiểu, nghiên cứu. Với công trình này, chúng tôi đã cố gắng đi sâu khảo sát những biểu hiện cơ bản, nổi bật về giá trị nghệ thuật của Truyện Kiều (trong sự tương ứng, thống nhất với giá trị nội dung, tư tưởng của tác phẩm), từ đó đưa ra các giải pháp thiết yếu, khả thi nhằm bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật của kiệt tác này.
Hoài Thanh từng viết: “Giá trị Truyện Kiều về phương diện văn chương đành là không thể chối cãi. Các nhà văn, nhà thơ của ta có thể học ở Nguyễn Du về cách sử dụng những tiếng, những lời, cách theo dõi một hình ảnh, cách xếp đặt những âm thanh, có thể học nhiều về các loại văn, từ văn gợi cảnh, dựng người, văn kể chuyện, văn tự tình cả đến văn kịch, văn đối thoại. Nguyễn Du đã phối hợp được bút pháp các văn hào, thi hào Trung Quốc với cái khiếu văn chương hồn nhiên của dân chúng, cái phong phú, cái kiều diễm của ca dao, những khả năng dị thường của tiếng Việt. Tôi ao ước chúng ta sẽ có một công trình đặc biệt nghiên cứu Truyện Kiều về phương diện văn chương”([51])…
Thực hiện các giải pháp Văn hóa về bảo tồn và phát huy những giá trị nghệ thuật Truyện Kiều là một công việc không đơn giản, đòi hỏi sự thấu hiểu sâu sắc, toàn diện tác phẩm và mối quan hệ giữa các giá trị ấy với đặc điểm đời sống chính trị, kinh tế - xã hội từng thời kỳ lịch sử: 1, là lối sống, bao gồm lao động, giao tiếp, ứng xử, tính cách con người, tri thức, học vấn; 2, là môi trường sinh thái, bao gồm không gian tự nhiên, không gian sản xuất, không gian thắng cảnh, không gian du lịch; 3, trong phát triển kinh tế bao gồm, kỷ năng về khoa học công nghệ và kỷ thuật, tổ chức quản lý dịch vụ. Tất cả giá trị nghệ thuật Truyện Kiều phải đặt trong mối quan hệ giữa nhu cầu tiếp nhận của con người đương đại và nhu cầu phát triển xã hội. Các giải pháp này cần phải song hành cùng những nhiệm vụ bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa khác trong chiến lược xây dựng và phát triển văn hóa, con người Hà Tĩnh.
3.2.2. Giải pháp tuyên truyền, giáo dục: Bằng nhiều hình thức phong phú, đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức cho các cấp, các ngành, cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân về giá trị di sản văn hóa xuyên thời đại trên nhiều phương diện của Truyện Kiều.
Về tuyên truyền những giá trị nghệ thuật của Truyện Kiều phải thu hút được lòng yêu mến, sự biết ơn, trân trọng Nguyễn Du của toàn xã hội và phải huy động được sự cộng tác của các nhà nghiên cứu văn hóa, văn học, các trí thức, văn nghệ sĩ trong nước và ngoài nước.
Các cơ quan, ban ngành (Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Thông tin Truyền thông; Tuyên giáo các cấp; Giáo dục - Đào tạo; Đoàn Thanh niên; Hội Văn học nghệ thuật; Chi hội Văn nghệ dân gian; Chi hội Nhà văn; Chi hội Nhạc sĩ; Nhà hát nghệ thuật Truyền thống;…) trên cơ sở chức năng nhiêm vụ của mình, chọn lựa, đưa di sản là giá trị nghệ thuật Truyện Kiều vào chương trình hoạt động hàng tháng, hàng quý, hàng năm.
Các tờ báo, tạp chí (Báo Hà Tĩnh, Tạp chí Hồng Lĩnh, đặc san Người Đại biểu HĐND, Thông tin tư tưởng Tỉnh ủy, Hà Tĩnh - Người làm báo, Văn hóa Hà Tĩnh) cần mở chuyên trang, chuyên mục: Nghệ thuật Truyện Kiều, đăng tải thông tin, bài nghiên cứu, bình luận về những giá trị nghệ thuật Truyện Kiều.
Đẩy mạnh thực hiện chuyển đổi số trong công tác quản lý và các hoạt đông văn hóa, ưu tiên thực hiện số hóa hệ thống di sản văn hóa về Nguyễn Du và nghệ thuật Truyện Kiều; nhất là cơ sở dữ liệu của Thư viện Hà Tĩnh, các điểm du lịch, Bảo tàng triển lãm, Khu Di tích Nguyễn Du và các hoạt động truyền thông, quảng cáo.
Hội Kiều học Hà Tĩnh cần đào tạo, phát triển hội viên, tăng thời lượng sinh hoạt và tổ chức Thi đọc thuộc Kiều, xuất bản các ấn phẩm thuộc nhiều loại hình về Nguyễn Du và Truyện Kiều,…
Sở Giáo dục - Đào tạo cần đưa các thể tài văn hóa dân gian về Truyện Kiều vào nhà trường; Chương trình Văn học địa phương tăng thêm nội dung về gía trị nghệ thuật Truyện Kiều; Hội Văn học Nghệ thuật chủ trì thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn nâng cao nhận thức về giá trị nghệ thuật Truyện Kiều đặc biệt là ngôn ngữ Truyện Kiều với văn chương hiện đại…
Giá trị to lớn, đa chiều kích của Truyện Kiều đòi hỏi có nhiều hình thức tuyên truyền. UBND tỉnh cần giao cho Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp với Hội Văn học nghệ thuật, Sở Thông tin truyền thông, lập chương trình, kế hoạch thực hiện các nội dung của Đề án:“Xây dựng, phát triển văn hóa, con người Hà Tĩnh trong giai đoạn mới” của UBND tỉnh đã được Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh ban hành theo Nghị quyết số 18-NQTU ngày 22.12.2023.
3.2.3. Tiếp tục tìm nguyên bản Truyện Kiều
Một thực tế là văn bản Truyện Kiều gốc không còn. Hơn 220 năm qua đã có đến hàng chục (thậm chí cả trăm dị bản Truyện Kiều). Theo ông Nguyễn Văn Hoàn: “ Cho đến nay chúng ta chưa thể kết luận được một cách chắc chăn là Truyện Kiều đã được Nguyễn Du sáng tác năm nào; trước hay sau năm 1813 là năm Nguyễn Du đi sứ Trung Quốc và tác phẩm đã được khắc ván Nôm lần đầu tiên ở đâu và vào năm nào?”. Tìm về nguyên tác Truyện Kiều là nhiệm vụ vô cùng cao cả của những ai yêu mến kiệt tác Truyện Kiều, kính trọng Nguyễn Du.
Nhưng khả năng về một văn bản Truyện Kiều do chính Nguyễn Du để lại là gần như không tưởng. Trong khi đó những khác biệt giữa các bản Kiều đã xuất bản do phiên âm chữ Nôm, do in ấn, do sai sót trong sửa đổi, trong cách đọc các âm cổ vùng Nghệ Tĩnh và vùng Kinh Bắc… vẫn tiếp tục xẩy ra. Vì vậy, cần dựa vào sự thống nhất của đa số các bản Kiều Nôm cổ in và chép tay trong thời Tự Đức để xác định tự hình của chữ Nôm, đối chiếu với phần phiên âm sang chữ Quốc ngữ của các bản Kiều Quốc ngữ. Từ đó, có thể dựa vào các Từ điển chữ Nôm, Từ điển Tiếng Việt cổ in từ năm 1651, 1772, 1895, 1898,… để phiên âm lại với hy vọng xích gần với nguyên tác (như ý kiến của ông Nguyễn Khắc Bảo, Phó Chủ tịch Hội Kiều học Việt Nam). Cùng với công việc phiên âm chữ Nôm đòi hỏi sự nghiêm cẩn, công phu trong khôi phục tự dạng (tức ký hiệu Nôm), đọc đúng âm vận của tiếng Việt thời Nguyễn Du. Khó khăn nữa là “với hệ thống chữ Nôm, một ký hiệu có thể đọc được nhiều âm, và một âm tiếng Việt có thể được thể hiện bằng một ký hiệu Nôm khác nhau. Do đó cần chú ý cả hai không thể coi trọng từ dạng hơn âm vận, và ở một mức độ nào đó thì âm vận tiếng Việt thế kỷ XVIII – XIX trong Truyện Kiều có một giá trị lớn trong tìm về nguyên tác Truyện Kiều”. Các nhà nghiên cứu và bạn đọc mê Kiều cần tiếp tục phát hiện, giải nghĩa, điều chỉnh, để có thể có một danh mục các âm từ cổ thời Nguyễn Du, hướng tới một văn bản Truyện Kiều gần hơn với nguyên tác.
3.2.4. Tăng cường các phương thức “diễn dịch” nghệ thuật dân gian đối với Truyện Kiều
Sợi chỉ đỏ xuyên suốt sự nghiệp văn học của Nguyễn Du từ Thơ chữ Hán đến các sáng tác bằng chữ Nôm, đặc biệt là Truyện Kiều là chủ nghĩa nhân đạo. Mặc dù xuât thân từ giai cấp quý tộc nhưng Nguyễn Du găn bó với đời sống nhân dân, lắng nghe được tâm hồn và nguyện vọng của quần chúng, ý thức được những vấn đề trọng đại của cuộc đời và với tài năng tuyệt vời của mình ông đã làm cho những vấn đề của cuộc đời thời ông sống bức thiết hơn, da diết hơn, ám ảnh hơn trong tác phẩm. Ý nghĩa đời người, thân phận nhân vật, chi tiết đời sống là một hiện thực sinh động gần gũi vô cùng với công chúng. Nguyễn Du đã vận dụng mọi kinh nghiệm thi ca của mình cũng như vận dụng mọi thành tựu thẩm mỹ của nền thơ ca dân gian để xây dựng nên Truyện Kiều, thân thiện với tâm lý tiếp nhận của quần chúng nhân dân. Hậu thế từ năng lực sáng tạo của mình đã sáng tạo nên những thành tố văn hóa đa dạng phong phú, phù hợp với mọi thời: Bói Kiều, Đố Kiều, Lẩy Kiều, Tập Kiều, Vịnh Kiều, Nhại Kiều,… Gìn giữ, phát huy các loại hình văn hóa dân gian bắt nguồn từ Truyện Kiều là một giải pháp quan trọng để tôn vinh, lan tỏa các giá trị Nghệ thuật Truyện Kiều - Nguyễn Du.
Có thể nói “Truyện Kiều là cuốn sách của hàng nghìn tâm trạng”, Truyện Kiều đã tạo nên một niềm tin, một đức tin trong dân gian... Cần giữ gìn và phát huy tính tích cực của sinh hoạt văn hoá Truyện Kiều dưới nhiều hình thức như đã từng có:
- Bói Kiều - một sinh hoạt văn hóa tâm linh vô cùng kỳ lạ và thú vị. Giữ gìn hoạt động tín ngưỡng văn hóa này cũng là cách giữ gìn mối quan hệ Nguyễn Du với dân gian, giữ gìn một giá trị nghệ thuật độc đáo của Truyện Kiều.
- Lẩy Kiều: lấy bất kỳ câu nào trong 3.254 câu trong Truyện Kiều miễn là cùng vần để rồi dùng câu 6 ghép vào câu 8, tạo ra một văn bản hàm nghĩa khác; dài ngắn như thế nào là tùy vào nội dung mà người lẩy Kiều muốn diễn đạt nhằm tới mục đích lan tỏa giá trị nghệ thuật của Truyện Kiều trong đời sống văn hóa cộng đồng..
- Tập Kiều: mượn văn chương, chữ nghĩa trong Truyện Kiều sáng tác thêm vào những câu, những chữ mới để phản ảnh một vấn đề nào đó mà mình quan tâm bằng thể thơ lục bát, song thất lục bát, thơ luật, văn tế, câu đối, ca trù ... Tập Kiều có thể sử dụng trong hát nói, hát ru, hát ví hát giặm… Với lợi thế của loại hình văn hóa dân gian này, cần phổ biến rộng rãi trong dân gian.
- Nhại Kiều: phỏng theo một số câu quen thuộc trong Truyện Kiều để viết ra những câu tương tự, thường là để châm biếm, giễu cợt. Đưa trò chơi dân gian Nhại Kiều vào nội dung các sinh hoạt văn hóa cộng đồng sẽ khuyến khích sự sáng tạo văn chương trong nhân dân và tạo nên sự phong phú, vui tươi cho không gian văn hóa Nguyễn Du và Truyện Kiều.
- Vịnh Kiều: lấy nội dung, tích truyện, quang cảnh, nhân vật của Truyện Kiều làm đề tài để giãi bày tâm sự hoặc nêu lên quan điểm của mình khi nhận định một vấn đề nào đó. Vịnh Kiều, có thể sử dụng các thể loại văn chương như biền văn, thơ lục bát, hát nói,.. và hầu hết là thơ luật (bát cú, tứ tuyệt), thơ Quốc âm (chữ Nôm và chữ Quốc ngữ).
Các thế hệ nhà thơ và quần chúng nhân dân sử dụng tất cả các thể thơ Việt Nam hiện đại, mở rộng về nội dung và hình thức trong thể tài Vịnh Kiều, góp phần lan tỏa giá trị của Truyện Kiều.
- Đố Kiều: Trong các sản phẩm sáng tạo của dân gian nói trên, Đố Kiều có giá trị sâu sắc, độc đáo được nhiều người dân yêu thích. Trong Đố Kiều, cả người ra câu đố và người giải đố thường dùng thơ và chủ yếu là thơ lục bát để chuyển tải ý của mình. Cần tổ chức nhiều hình thức Đố Kiều ở những địa điểm phù hợp và với đặc điểm của nó, có thể đưa Đố Kiều vào các hoạt động văn hóa khác như ví Phường vải, hò Thạch Khê, ví Đò đưa, ví Trèo non…
Về không gian diễn xướng: do tính chất, đặc điểm của thể đố Kiều, đối tượng tham gia không những đòi hỏi phải thuộc, phải hiểu Truyện Kiều mà còn phải có cách phản ứng nhanh trong việc diễn tả ý của mình dưới hình thức thể thơ lục bát, và hát theo làn điệu dân ca ví giặm xứ Nghệ.
Đầu tư cho công việc gìn giữ và phát huy các thể tài văn hóa dân gian về Nguyễn Du và Truyện Kiều: Đầu tư xây dựng không gian diễn xướng (sân khấu, phục trang, nhạc cụ); đầu tư cho công việc bồi dưỡng, đào tạo các tác giả sáng tác thơ ca; mở các lớp tập huấn về nội dung và cách thức tổ chức các hoạt động văn hóa dân gian về Nguyễn Du và Truyện Kiều: Lẩy Kiều, Bói Kiều, Tập Kiều, Nhại Kiều, Vịnh Kiều và về các làn điệu dân ca cổ truyền Xứ Nghệ cho cán bộ nhân viên các câu lạc bộ nghệ thuật các địa phương.
Cần có chương trình, kế hoạch,đưa các thể tài văn hóa dân gian về Truyện Kiều vào chương trình hoạt động của các Trung tâm Văn hóa huyện, thị, Thành phố, Câu lạc bộ dân ca, ví giặm các địa phương, các địa điểm du lịch và Trường học trong toàn tỉnh.
3.2.5. Tăng cường các “diễn dịch” nghệ thuật bác học về Truyện Kiều
Là một tác phẩm kinh điển lớn, một thế giới đa chiều kích, sinh động với đặc trưng thể loại Truyện thơ Nôm cùng thủ pháp ước lệ của mỹ học phương Đông, Truyện Kiều là mảnh đất rộng lớn cho hoạt động sáng tạo của nhiều ngành văn hoá, văn nghệ: âm nhạc, hội họa, điêu khắc, sân khấu, điện ảnh,…
Với âm nhạc: Lâu nay đã có những tác phẩm âm nhạc “diễn dịch” Truyện Kiều thành công như Kiều ca của Phạm Duy, bản giao hưởng Hợp xướng Truyện Kiều của Vũ Đình Ân, Nhạc kịch dựa theo Truyện Kiều của An Thuyên,... Hàng trăm ca khúc đã ra đời, đến với công chúng. Nhưng so với thế giới nghệ thuật Truyện Kiều, với những không gian nghệ thuật, những nhân vật, những trạng thái tình cảm, những tình huống , những chi tiết, sự nhiệm màu của ngôn ngữ đến triết lý, luân lý trong Truyện Kiều thì loại hình âm nhạc mới chỉ đáp ứng được một phần rất nhỏ. Hà Tĩnh là quê hương của Ca trù, của dân ca Ví, Giặm, nhiều văn nghệ sỹ từng thành công khi lấy Truyện Kiều làm cảm hứng sáng tác tác phẩm âm nhạc. Các cơ quan quản lý nhà nước cần thiết đưa họ vào đối tượng quan tâm hổ trợ sáng tạo và quảng bá tác phẩm và đề ra các giải pháp thúc đẩy sáng tác các tác phẩm âm nhạc, nhạc không lời, giao hưởng, nhạc kịch về Nguyễn Du và Truyện Kiều.
Với hội họa, điêu khắc (tranh, tượng nghệ thuật, tranh tượng mỹ nghệ, truyện tranh, tranh dân gian, minh họa Truyện Kiều) đã từng xuất hiện trong đời sống nghệ thuật nhiều nơi. Ở Hà Tĩnh chuyên ngành hội họa điêu khắc chưa phát triển, đặc biệt điêu khắc còn là một khoảng trống. Sở VHTT&DL và Hội VHNT cần đầu tư đào tạo họa sỹ, có giải pháp phát triển mỹ thuật nói chung và hội họa về đề tài Nguyễn Du, Truyện Kiều nói riêng.
Với sân khấu: Ngoài kịch Hoạn thư ghen chồng và những vở ngắn Trò Kiều, còn nhiều khoảng trống trong bộ môn nghệ thuật có thế mạnh lan tỏa giá trị di sản Truyện Kiều tới các cộng đồng dân cư. Sở Văn hóa, Nhà hát nghệ thuật truyền thống, các Trung tâm VHTT cần mở các cuộc vận động sáng tác kịch bản sân khấu: Kịch nói, Kịch dân ca, Chèo, Tuồng… về đề tài Nguyễn Du, Truyện Kiều và giao cho các tổ chức chức năng dàn dựng, biểu diễn phục vụ công chúng.
Ngoài ra, cần thấu hiểu và phát huy giá trị thể thơ lục bát Truyện Kiều cho những loại hình diễn xướng nghệ thuật khác như: Quan họ, dân ca Nghệ Tĩnh, dân ca Nam Bộ… Đồng thời, phục hồi, xây dựng những thành tố văn hóa trong quá trình vận động từ hình thức ca múa, diễn xướng dân gian thành nghệ thuật sân khấu như Chèo (Chèo sân đình, Chèo Cải lương, Chèo hiện đại), Trò Kiều, Cải lương Kiều,…
Với Điện ảnh: Với công nghệ và nghệ thuật tổng hợp, điện ảnh có sức ảnh hưởng trực tiếp đến xã hội, tác động mạnh mẽ vào tư tưởng, tình cảm của số đông. Năm 2021, Công ty Cổ phần Không gian văn hóa Media sản xuất Phim Tài liệu nghệ thuật Nguyễn Du. Phim mang lại cho khán giả cái nhìn khái quát về cuộc đời, thân thế Đại thi hào Nguyễn Du với cách thể hiện mới mẻ, nhiều cảm xúc, chân thực sinh động, có sức lan tỏa vào đời sống xã hội.
Tiếp nhận và thể hiện Truyện Kiều, với điện ảnh, đang là thử thách lớn. Thời gian qua xuất hiện một số bộ phim về Truyện Kiều hoặc lấy cảm hứng từ Truyện Kiều, nhưng nhìn chung đều thất bại nếu không muốn nói là thảm hoạ. Ở đây, có bao nhiêu vấn đề “nóng” cần sớm được bàn bạc, thảo luận một cách nghiêm túc, khoa học.
Trong xu thế của “Công nghiệp văn hóa”, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần phát động cuộc thi viết kịch bản, huy động sức mạnh của các cá nhân, các doanh nghiệp sản xuất phim về Nguyễn Du và Truyện Kiều.
3.2.6. Giải pháp trao quyền
Hiện nay, Hà Tĩnh đã có 3 Nghệ nhân Nhân dân, 22 Nghệ nhân Ưu tú, nhưng nghệ nhân sáng tác tác phẩm để dàn dựng các thể tài văn hóa dân gian về Truyện Kiều và các loại hình nghệ thuật khác về Nguyễn Du và Truyện Kiều đang rất khiêm tốn. Phải có quan điểm coi Nghệ nhân dân gian là báu vật và công tác đào tạo, bồi dưỡng lực lượng kế cận, trao quyền cho các thế hệ tiếp nối là một nhiệm vụ quan trọng của chương trình, kế hoạch bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa của các cơ quan chức năng.
3.2.3. Nhóm giải pháp chuyên ngành
Rất cần thiết phải xây xựng và thực thi hữu hiệu các đề án chuyên ngành: Đề án Xây dựng Không gian văn hoá Nguyễn Du và Truyện Kiều; Đề án thành lập Trung tâm Nghiên cứu Truyện Kiều;
Các đề án này phải được xem là những nội dung trong Đề án Xây dựng và phát triển Văn hóa, con người Hà Tĩnh trong giai đoạn mới đã được Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh ra Nghị quyết số 18-NQTU, ngáy 22 tháng 12 năm 2023.
Về Đề án Xây dựng Không gian Văn hóa Nguyễn Du và Truyện Kiều
Xây dựng Không gian Văn hóa Nguyễn Du và Truyện Kiều là một giải pháp tổng hợp, biểu hiện sâu sắc những tính chất phong phú, sống động, đa chiều của thế giới nghệ thuật Truyện Kiều, tạo ra sức lan tỏa những giá trị ấy tới công chúng bất chấp tính thời đại và các mâu thuẫn vốn có của cuộc sống.
Vì vậy rất cần đầu tư cho điền dã, khảo sát, nghiên cứu, đánh giá công tác bảo tồn, phát huy những giá trị di sản của Nguyễn Du trên địa bàn Hà Tĩnh; những yêu cầu mới trong hưởng thụ đời sống văn hóa đương đại của người dân trên địa bàn toàn tỉnh; các hoạt động quảng bá di sản văn hóa số trên không gian mạng, những đòi hỏi của công tác quản lý và phát triển kinh tế - văn hóa theo tinh thần của Quy hoạch tỉnh Hà Tĩnh thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã ban hành: Con người Hà Tĩnh phát triển hài hòa cả về trí tuệ, thể chất, đạo đức, bản sắc văn hóa; Di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được bảo tồn, phát huy.
- Xây dựng Không gian Văn hóa Nguyễn Du và Truyện Kiều bao gồm xây dựng các công trình, các thiết chế văn hóa trên cơ sở kế thừa và sáng tạo những giá trị văn hoá gắn với đại thi hào Nguyễn Du và Truyện Kiều. Cụ thể là xây dựng một khu lưu niệm, một bảo tàng, một quảng trường, một tượng đài, một trung tâm văn hoá nghệ thuật…, hoặc một chương trình nghệ thuật, một hội thảo… mang tên Nguyễn Du và Truyện Kiều. Đồng thời xây dựng các phòng đọc mang tên “Phòng đọc Nguyễn Du”, trong Thư viện các cấp, các trường học, các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp.
Triển khai các hoạt động văn hoá như hội thảo, toạ đàm, phát triển các câu lạc bộ thơ, lễ hội, du lịch, triển lãm… ở nhiều cấp độ.
Phảt triển Không gian văn hóa Nguyễn Du và Truyện Kiều trên các nguyên tắc: - Gắn với cộng đồng có không gian văn hoá của các dòng họ, các tổ chức đoàn thể, thậm chí cả các cá nhân; - phát triển không gian văn hoá Nguyễn Du phải đặt trong tổng thể không gian văn hoá núi Hồng - sông Lam, làm giàu có và phong phú thêm văn hoá xứ Nghệ, đồng thời hướng tới tạo lập những nét văn hoá đặc trưng của quê hương Hà Tĩnh.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển các thiết chế văn hoá gắn với Nguyễn Du, sáng tạo các không gian văn hóa mới gắn với sự tôn vinh và phát huy di sản văn hoá của các danh nhân văn hóa khác làm nổi bật được truyền thống văn hoá – văn hiến của quê hương Hà Tĩnh, thúc đẩy cảm hứng sáng tạo, tình yêu, niềm tự hào và trách nhiệm của nhân dân với quê hương, đất nước.
- Phát triển không gian văn hoá Nguyễn Du phải được xem là một công việc quan trọng, có tác động mạnh mẽ đến đời sống văn hoá của địa phương, từ cấp tỉnh tới xã, phường, các lĩnh vực của đời sống cộng đồng đến từng gia đình, từng cá nhân.
Trên cơ sở các nguyên tắc vừa nêu, giải pháp xây dựng Không gian văn hóa Nguyễn Du và Truyện Kiều phải tùy theo điều kiện của từng không gian, từng địa phương, từng nguồn lực mà xây dựng không gian độc lập hay hợp phần một cách phù hợp. Đồng thời cũng tùy theo cấp độ các không gian và nguồn lực đã có, sưu tầm, tập hợp và xây dựng bộ cơ sở dữ liệu số về di sản văn hóa vật thể và phi vật thể gắn với cuộc đời, sự nghiệp đại thi hào Nguyễn Du. Trong đó ưu tiên các bản Truyện Kiều đã xuất bản; các loại hình nghệ thuật hình ảnh và trình diễn về đề tài Truyện Kiều. Cũng như thế với việc thiết kế và phát động các chiến dịch quảng bá, truyền thông về di sản Nguyễn Du trên không gian thực và không gian mạng tại địa bàn Hà Tĩnh, trong cả nước và trên thế giới bằng nhiều sản phẩm số và sản phẩm tiêu dùng, lưu niệm...
Cuối cùng để thực hiện thành công Đề án cần có giải pháp báo cáo tư vấn chính sách để tỉnh Hà Tĩnh có hồ sơ tư liệu số hóa, cơ sở khoa học và thực tiễn chỉ đạo tiếp tục xây dựng Các không gian văn hóa Nguyễn Du trên địa bàn..
Về Trung tâm Nghiên cứu Truyện Kiều
Trung tâm Nghiên cứu Truyện Kiều là một tổ chức xã hội nghề nghiệp tự nguyện của những nhà nghiên cứu văn hóa, những trí thức, văn nghệ sỹ tâm huyết, say mê, yêu quý Đại thi hào Nguyễn Du và Truyện Kiều. Trung tâm trực thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, có địa điểm, con dấu, tài khoản, với các chức năng nhiệm vụ:
- Phục hồi các không gian diễn xướng thu hút chương trình, dự án bảo tồn phát triển: Ca trù, dân ca Ví, Giặm, các lễ hội Rước lão, lễ Cầu Khoa, lễ hội Thanh Minh trên quê hương Nguyễn Du (Nghi Xuân).
- Sưu tầm các bản Kiều và các tài liệu liên quan về Nguyễn Du, Truyện Kiều từ xưa đến nay; chọn lọc, xuất bản ấn phẩm nghiên cứu giá trị di sản Nguyễn Du, Truyện Kiều; các kịch bản diễn xướng dân gian dưới dạng sách in, sách điện tử (Ebook), sách 3D, số hóa… về Truyện Kiều.
- Tại Khu lưu niệm Nguyễn Du: Phát triển Thư viện Nguyễn Du về phương thức hoạt động, đầu sách. Tổ chức khu trưng bày tại Quảng trường Nguyễn Du theo Quyết định số 2169/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 03/12/2015, gồm: gian trưng bày thư pháp chữ Hán về Nguyễn Du và Truyện Kiều; nghệ thuật tạo hình về cảnh quan và các nhân vật trong Truyện Kiều; các bộ tranh minh họa Truyện Kiều từ xưa tới nay.
- Tăng cường công tác nghiên cứu, tổ chức Hội thảo khoa học làm cơ sở lý luận cho việc xây dựng chính sách bảo tồn phát huy giá trị nghệ thuật Truyện Kiều; Xây dựng phim tư liệu, xuất bản đĩa CD,VCD về các hoạt động diễn dịch dân gian và bác học về Truyện Kiều.
- Phát huy mối liên kết với dòng họ Nguyễn Tiên Điền và Chính quyền địa phương tạo sự thống nhất trong việc tổ chức triển khai các hoạt động bảo tồn, phát huy những giá trị nghệ thuật Truyện Kiều.
3.2.4. Giải pháp đào tạo nguồn lực
Nguồn lực con người là cơ bản, là xuyên suốt mọi công việc gìn giữ, bảo tồn và phát huy những giá trị nghệ thuật Truyện Kiều. Vì thế công tác đào tạo lực lượng cán bộ công chức và chuyên gia chuyên ngành văn hóa nghệ thuật cùng với công việc củng cố, đổi mới và phát triển các tổ chức quản lý văn hóa cần được quan tâm triển khai đồng bộ, tích cực với các nội dung cụ thể sau đây:
- Gửi cán bộ đi học chính quy, hoặc tại chức vào các Trường Cao đẳng, Đại học Khoa học nhân văn. Tổ chức các lớp Tập huấn, bồi dưỡng, nâng cao trình độ lý luận cơ bản về tư tưởng nghệ thuật, ý thức thẩm mỹ trong văn chương cùng những cảm nhận, thấu hiểu về cuộc đời, sự nghiệp của Nguyễn Du và nghệ thuật Truyện Kiều cho đội ngũ hoạt động Văn hóa (đặc biệt là cán bộ công chức trong văn phòng Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch, các phòng Di sản, Nghiệp vụ văn hóa, Du lịch, các tổ chức Bảo tàng, Khu Di tích Nguyễn Du, Trung tâm văn hóa, các huyện, thị, thành phố).
- Chăm lo đời sống các nghệ nhân dân gian, tạo điều kiện thuận lợi mọi mặt cho các nghệ nhân hoạt động.
- Động viên, khuyến khích, khen thưởng thế hệ trẻ có lòng say mê hoạt động nghệ thuật dân gian trong cộng đồng dân cư, hoặc trong các tổ chức câu lạc bộ dân ca Ví giặm, Ca trù, trò chơi dân gian về Truyện Kiều và ở các Trung tâm văn hóa huyện, thị, thành phố.
- Có chính sách thu hút các chuyên gia về Nguyễn Du và Truyện Kiều đóng góp tài năng, trí tuệ cho văn hóa Hà Tĩnh.
- Củng cố, tăng cường nguồn lực (con người, kinh phí, phương tiện,…) cho Phòng Quản lý Di sản, phòng quản lý Văn hóa - Nghệ thuật, phòng quản lý Du lịch, Khu Di tích Nguyễn Du, Thư viện, Bảo tàng, Trung tâm văn hóa - Điện ảnh và các câu lạc bộ Văn nghệ ở các địa phương trong toàn tỉnh.
Truyện Kiều đã từng được tìm hiểu, nghiên cứu nhiều (cho đến nay, đã có hàng ngàn công trình, bài viết nghiên cứu, khảo cứu nghiêm túc, công phu); Truyện Kiều cũng đã được chuyển dịch và giới thiệu qua hơn 20 thứ tiếng...
Dẫu vậy, cuộc tìm tòi, khảo cứu, giải mã, công bố mới về các giá trị của Truyện Kiều hãy còn được tiếp tục... Việc tìm các gỉải pháp bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật của Truyện Kiều một cách hữu hiệu là việc làm không dễ chút nào, đòi hỏi sự nỗ lực và đóng góp về tài năng, trí tuệ, công sức… của nhiều người, nhiều ngành, nhiều tổ chức, cá nhân, và các cấp chính quyền…
Lý luận và thực tiễn trong triển khai nhiệm vụ bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật của Truyện Kiều nhất thiết phải được quan tâm, như là những nguyên tắc phải thực hiện. Cần tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chinh trị - xã hội, sự tham gia của các tầng lớp nhân dân trong bảo tồn và phát huy những giá trị nghệ thuật Truyện Kiều.
Nhiệm vụ trước mắt và là thường xuyên là tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho các cấp, các ngành, cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò, ý nghĩa của giá trị nghệ thuật Truyện Kiều trong giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, trong chiến lược xây dựng văn hóa, con người Hà Tĩnh theo mục tiêu của Nghị quyết số 18-NQTU, ngáy 22 tháng 12 năm 2023 của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh: “Xây dựng, phát triển toàn diện văn hóa và con người Hà Tĩnh thấm nhuần tinh thần dân tộc, giàu bản sắc quê hương, tiếp thu chọn lọc các giá trị văn hóa tiên tiến. Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng 3 miền, địa bàn dân cư. Chăm lo xây dựng môi trường văn hóa trong gia đình, dòng họ, khu dân cư, cơ quan, đơn vị, trường học, doanh nghiệp. Bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống; phát triển các sản phẩm văn hóa, du lịch đặc trưng, giàu bản sắc; phát triển đa dạng các loại hình văn học, nghệ thuật. Tập trung đầu tư nguồn lực để văn hóa phát triển toàn diện, trở thành sức mạnh nội sinh, động lực đưa Hà Tĩnh phát triển nhanh, bền vững”.
KẾT LUẬN
1. Nguyễn Du (1765-1820) - một trong số không nhiều những hiện tượng hội đủ mọi điều kiện cả tài và tâm để thỏa mãn danh xưng Đại thi hào, Danh nhân văn hoá mang tầm vóc nhân loại. Trong số những nhà thơ “song ngữ” (sáng tác bằng cả chữ Hán và chữ Nôm) kiệt xuất Việt Nam thời trung đại, Nguyễn Du là một đỉnh cao nổi trội. Toàn bộ sáng tác của ông bằng cả chữ Hán và chữ Nôm mà đỉnh cao là kiệt tác Truyện Kiều, cho thấy sự đa dạng và thống nhất của một phong cách “nghìn năm có một” với ba đặc điểm: Cái nhìn “trông thấu cả sáu cõi”, Tấm lòng “nghĩ suốt cả nghìn đời”, và Bút lực của một nghệ sĩ ngôn từ xuất chúng. Tìm hiểu, nghiên cứu về di sản văn hoá – văn học của Nguyễn Du, đặc biệt là Truyện Kiều, dẫu ở phương diện nào, cũng đang là nhu cầu bức thiết của hậu thế.
2. Tiếp cận Truyện Kiều từ phía phương thức - nghệ thuật thể hiện, từ đó xác định “giá trị nghệ thuật” của tác phẩm hãy còn có nhiều nhiều bỏ ngỏ. Hướng tiếp cận, nghiên cứu mới của công trình này là nhìn Truyện Kiều từ giá trị nghệ thuật trong tính hệ thống của các phương thức thể hiện và nhìn các giá trị nghệ thuật của Truyện Kiều trong tính thống nhất chỉnh thể của tác phẩm
Có thể nói, ở Truyện Kiều, có bao nhiêu thành tố tham gia cấu thành nên tác phẩm là có bấy nhiêu chỗ có thể chỉ ra giá trị, ngay cả ở những thành tố vay mượn. Tuy nhiên, theo quan điểm của chúng tôi, giá trị nghệ thuật tiêu biểu, vô song của Truyện Kiều, thuộc về ba thành tố cơ bản: Ngôn ngữ, Thể loại, và Nghệ thuật tự sự - trữ tình gắn với phân tích tâm lý nhân vật của Nguyễn Du.
Ngôn ngữ /tiếng Việt đến và qua Truyện Kiều là một bước phát triển và hoàn thiện mang tính đột phá, không chỉ là sự kết tinh thành tựu của tiếng Việt mà còn giúp tiếng Việt phát triển theo hướng phong phú, đa năng và chuẩn hoá. Ngôn ngữ Truyện Kiều là một loại ngôn ngữ văn hoá, có sức sống trường tồn.
Nguyễn Du đã tiếp thu ngôn ngữ/ tiếng Việt từ nhiều nguồn, sáng tạo và nâng cao khả năng biểu đạt của tiếng Việt; cung cấp một hệ tiêu chuẩn cao về sự trong sáng, tinh tế, chuẩn mực của ngôn ngữ, về từ pháp, cú pháp, “chương pháp”, cách biểu đạt cho ngôn ngữ tiếng Việt về sau.
Ngôn ngữ Truyện Kiều thuộc loại hình ngôn ngữ nghệ thuật, trong sáng, tinh tế, giàu tính tạo hình và biểu cảm, giàu chất thơ, tính thơ, đáp ứng cao nhất mọi yêu cầu của ngôn ngữ thể loại mà tác phẩm sử dụng. Tiếng Việt qua Truyện Kiều đã chứng tỏ khả năng không giới hạn của một thứ ngôn ngữ vi diệu trong biểu đạt mọi trạng thái của “tâm” - “tình” - “cảnh” - “sự”, trong chuyển tải muôn điều muốn nói của con người trước nhiều bối cảnh, tình thế và trạng huống phức tạp khác nhau, có thể thoát khỏi ngữ cảnh của tác phẩm để đi vào đời sống.
Gắn với giá trị của ngôn ngữ/ tiếng Việt là giá trị nghệ thuật của thể loại thuần Việt từ Truyện Kiều. Việc lựa chọn thể loại “kép” thuần Việt cho Truyện Kiều của Nguyễn Du vừa là cách tạo “kênh” tiếp nhận tốt nhất cho người đọc, vừa là biểu hiện của lòng tự tôn và ý thức bản sắc dân tộc một cách sâu sắc. Với tư cách là một thể loại “kép” thuần Việt của văn chương thẩm mỹ, phải đến Truyện Kiều, Truyện Nôm – Lục bát mới đạt đến trình độ điển phạm, chuẩn mực trên cả ba phương diện: chức năng, nội dung và thi pháp thể loại. Xét riêng ở từng thể loại (truyện Nôm hoặc lục bát), chúng ta càng thấy đóng góp của Nguyễn Du cho từng thể loại là hết sức lớn lao. Với thể loại truyện (Truyện Nôm), Truyện Kiều có những đóng góp kiệt xuất trên cả hai phương diện nội dung tư tưởng và nghệ thuật thể hiện. Với thể loại thơ (lục bát), Truyện Kiều càng có những đóng góp vô song. Nhờ lợi thế của sự “cộng sinh” hai thể loại: truyện (truyện Nôm) và thơ (lục bát), Nguyễn Du đã mang lại cho thể lục bát nhiều chức năng mới, nội dung mới, và thi pháp mới. Truyện Kiều đã hoàn thiện và khẳng định mô hình chuẩn của cấu trúc lục bát, đồng thời đặt ra nhiều thử thách cho lục bát về sau nếu muốn làm mới thể loại.
Giá trị của nghệ thuật tự sự - trữ tình gắn với phân tích tâm lý nhân vật trong Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng đã được công trình lần lượt làm rõ trên ba nội dung: Vấn đề tự sự và trữ tình; Phương pháp tự sự, trữ tình; và Mối quan hệ giữa tự sự và trữ tình trong Truyện Kiều. Biệt tài trong xử lý chất liệu tự sự và trữ tình của Nguyễn Du khiến cho tự sự dính chặt với trữ tình; tự sự dẫn dắt trữ tình, trữ tình tạo “chất thơ” cho tự sự, khiến cho câu chuyện vốn là “khách quan” nhưng lại như là “tiếng lòng” của chủ quan người tiếp nhận... Cái tôi tác giả, nhân vật người kể chuyện và điểm nhìn trần thuật cũng là những thành tố có vai trò hết sức quan trọng giúp Nguyễn Du vừa thực hiện tốt yêu cầu của tự sự/ truyện, vừa thực hiện tốt yêu cầu của trữ tình/ thơ, hơn thế nữa là, gắn kết tự sự và trữ tình trong một cấu trúc, hệ thống chỉnh thể.
3. Truyện Kiều với những giá trị nghệ thuật vô song đã có ảnh hưởng sâu sắc, lớn lao đến lịch sử văn học nghệ thuật dân tộc ở nhiều loại hình: Văn học (bao hàm cả sáng tác và nghiên cứu phê bình); Kịch – sân khấu (kịch hát/ ca kịch, kịch nói, kịch hình thể); Âm nhạc; Dân ca; Mỹ thuật; Vũ đạo; Phim (truyền hình, điện ảnh, hoạt hình);…
Đặc biệt, Truyện Kiều từng đi sâu vào đời sống văn hóa của nhân dân ta dưới nhiều hình thức khác nhau: Tập Kiều, Lẩy Kiều, Ngâm Kiều, Xướng Kiều, Hoạ Kiều, Vịnh Kiều, Án Kiều, Tuồng Kiều, Trò Kiều, Vận Kiều,“Hậu Kiều”, Bói Kiều, Đố Kiều, Ru Kiều... Tất cả các hình thức đó đều thuộc hiện tượng Parody/ nhại Truyện Kiều. Hiện tượng Parody (nhại) Truyện Kiều tạo thành một loại hình Văn hoá Truyện Kiều hiếm có. Công trình đã đi sâu, tập trung phân tích hai hướng chủ yếu trong Parody (nhại) Truyện Kiều: Parody (nhại) ngôn ngữ Truyện Kiều và Parody (nhại) thể loại Truyện Kiều. Giá trị nghệ thuật của Truyện Kiều trên nhiều thành tố, một mặt là hình mẫu, mặt khác vừa đặt ra những thử thách vừa tạo cơ hội cho những tìm tòi, sáng tạo của văn học nghệ thuật về sau. Trong tương lai (dự đoán), hiện tượng Parody (nhại) Truyện Kiều trên nhiều phương diện/ thành tố, đặc biệt là nhại ngôn ngữ, nhại thể loại, nhại nhân vật sẽ còn phát triển mạnh mẽ, giúp cho văn hoá – văn học Việt Nam càng thêm phong phú và giữ được bản sắc của mình...
4. Vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị tiêu biểu của Truyện Kiều ở góc độ giá trị nghệ thuật là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng và thực sự bức thiết hiện nay. Từ mục đích, yêu cầu và các cơ sở lý luận, thực tiễn về bảo tồn và phát huy giá trị của di sản –Truyện Kiều, công trình đã đưa ra những nhóm giải pháp cụ thể, sát thực và hoàn toàn mang tính khả thi, gồm: 1, Nhóm giải pháp Kinh tế xã hội gồm: Chính sách kinh tế xã hội; Quản lý kinh tế xã hội. 2, Nhóm giải pháp văn hóa, gồm: Tuyên truyền giáo dục; Tìm về nguyên bản Truyện Kiều; Tăng cường phương thức diễn dịch nghệ thuật dân gian và nghệ thuật bác học về Truyện Kiều Kiều; 3. Nhóm giải pháp chuyên ngành bao gồm: Xây dựng không gian văn hóa Nguyễn Du- Truyện Kiều; Thành lập Trung tâm nghiên cứu Truyện Kiều. Cuối cùng là Giải pháp đào tạo nguồn lực.
Các giải pháp trên cần được triển khai thực thi với sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ, khoa học của các tổ chức Chính trị xã hội, các cấp chính quyền, các cơ quan quản lý văn hóa, giáo dục, các nhà khoa học, nghệ sĩ và nhân dân… Chỉ có như vậy, những giá trị tiêu biểu của Truyện Kiều đặc biệt là giá trị nghệ thuật của Truyện Kiều mới được bảo tồn và phát huy hữu hiệu…
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(TLTK sắp xếp đúng quy chuẩn, thứ tự theo Alphabet tên tác giả: Tên tác giả, tên tác phẩm/bài viết, Nxb/Tạp chí, Nơi xuất bản (hoặc nguồn dẫn), Năm xuất bản. Tên sách: in nghiêng; tên bài báo rút ra từ một cuốn sách hay từ một tờ tạp chí, báo (kể cả báo điện tử): in đứng và để trong dâu kép (“...”):
1. Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974.
2. Đức Ban, “Cái tôi trong thơ Xuân Diệu giai đoạn Thơ mới 1932 - 1945”, Sách Xuân Diệu – tác gia và di sản văn học (tr.96 - 100), Nxb Đại học Vinh, Hà Tĩnh, 2016.
3. Đức Ban, “Nguyễn Công Trứ - Người dấn thân”, Sách Thông Ngàn Hống (tr.100 - 105), Nxb Nghệ An, 2018.
4. Nguyễn Tài Cẩn, Tư liệu Truyện Kiều từ bản Duy Minh Thị đến bản Kiều Oánh Mậu, Nxb Văn học và Trung tâm nghiên cứu Quốc học, 2004.
5. Nguyễn Huệ Chi, Văn học cổ cận đại Việt Nam – Từ góc nhìn văn hoá đến các mã nghệ thuật, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2013.
6. Nguyễn Huệ Chi, “Giai nhân kỳ ngộ diễn ca một thể nghiệm mới của Phan Châu Trinh về truyện thơ lục bát”, http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai9/200609_NHChi.htm
7. Clyne, Cultural values in discourse. Cambridge: CUP, M.1994.
8. Bạch Diện, Kiều Tân thời, Nhà in Trung Bắc xuất bản, Hà Nội, 1935.
9. Nguyễn Du, Truyện Kiều (Hà Huy Giáp giới thiệu, Nguyễn Thạch Giang khảo đính và chú thích), Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1975.
10. Nguyễn Du, Truyện Kiều (Nguyễn Quảng Tuân khảo đính và chú giải), Nxb Khoa học xã hội, 1997.11. Nguyễn Du, Truyện Kiều (Ấn bản đặc biệt kỷ niệm 250 năm năm sinh đại thi hào Nguyễn Du), Nxb Trẻ và Hội Kiều học Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, 2015.
12. Nguyễn Du, Truyện Kiều (bản UNESCO, Quốc ngữ - Nôm đối chiếu), Nxb Lao động, 2017.
13. Dương Trung Dũng, Đinh Thế Anh, Nguyễn Tài Linh biên soạn (Hoàng Ngọc Cương, Nguyễn Đức Bá phiên âm, dịch chú), Kim Vân Kiều tân truyện (Kim Vân Kiều hội bản - Bản Nôm của Hoàng gia triều Nguyễn), Nxb Văn học, 2022.
14. Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (chú thích và bình luận), Vương Thúy Kiều chú giải tân truyện, Nxb Hương Sơn, Hà Nội, 1941 (tái bản: 1952).
15. Biện Minh Điền, “Tư tưởng lý luận văn nghệ trong văn học Việt Nam trung cận đại giai đoạn nửa đầu thế kỷ XIX”, Chương 4, sách Tư tưởng lý luận văn nghệ Việt Nam thời trung cận đại (thế kỷ X – XIX) (từ đề tài KHCN cấp Nhà nước do GS.TS. Mai Quốc Liên chủ trì), Nxb Văn học, TP. Hồ Chí Minh, 2022.
16. Biện Minh Điền, “Sự trải nghiệm, tích hợp các yếu tố văn hoá vùng miền và cảm quan nghệ thuật của Nguyễn Du”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 8.2011 (tr.77-91).
17. Biện Minh Điền, “Nữ sĩ Hồ Xuân Hương với thời gian và tầm vóc một danh nhân văn hoá, một thi hào”, Tạp chí Lý luận Phê bình Văn học-Nghệ thuật Trung ương, số 7.2022, tr.115-120 (cũng in trong Kỷ yếu HTKHQT Nữ sĩ Hồ Xuân Hương (1772-1822) Danh nhân văn hoá và giá trị di sản, Tập I, Nxb Nghệ An, 2022, tr.19-26).
18. Biện Minh Điền, Hệ thống thể loại thuần Việt trong văn học trung đại Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 03/ 2014, tr.41 – 53.
19. Mộng Liên Đình, Đào Hoa Mộng Ký (thế kỷ XIX), trong Đại Nam chính biên liệt truyện (Quyển 33) của Quốc sử quán triều Nguyễn, Trần Nghĩa dịch và giới thiệu trong Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam (tập IV, tr.5-69), Nxb Thế giới, 1997.
20. Nhất Hạnh, Thả một bè lau - Truyện Kiều dưới cái nhìn Thiền quán, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2005.
21. Nguyễn Trung Hiếu, Về tính hệ thống và đặc trưng của văn học nghệ thuật (Biện Minh Điền sưu tầm, biên soạn và giới thiệu), Nxb Đại học Vinh, 2020, tr.115-137.
22. Nguyễn Trung Hiếu, “Vấn đề điển hình ở nàng Kiều” trong sách Về tính hệ thống và đặc trưng của văn học nghệ thuật (Biện Minh Điền sưu tầm, biên soạn và giới thiệu), Nxb Đại học Vinh, 2020, tr.138-150.
23. Nguyễn Hoà, Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 34, Số 1 (2018), tr.1-15.
24. Nguyễn Quang Hồng, “Khái lược về văn học chữ Nôm ở Việt Nam”, http://www.ivce.org/magazinedetail.ph...
25. Hutcheon L, Theory of parody: The teachings of Twentieth Century Art Forms, Universty of Lllinois Press, p.15-18.
26. Võ Hồng Huy, Thái Kim Đỉnh, Vũ Ngọc Khánh, Tiếng Kiều đồng vọng, Nxb Văn hóa Thông tin, 2010.
27. Nguyễn Thị Hưởng, “Trường từ vựng thị giác trong Truyện Kiều”, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, Số 8 (178)-2010, tr.29.
28. Jakobson R, “Thơ là gì?” (Trịnh Bá Đĩnh dịch), Tạp chí Văn học, số 12.1996.
29. Vũ Ngọc Khánh (sưu tầm, biên soạn), Kho tàng giai thoại Việt Nam, Nxb Văn hoá, 1994.
30. Khrapchenko M, Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học (Lê Sơn – Nguyễn Minh dịch), Nxb Tác phẩm mới, Hội Nhà văn Việt Nam, Hà Nội, 1978.
31. Lê Đình Kỵ, Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1970 (về sau đổi thành: Truyện Kiều, đỉnh cao văn học, Nxb Cửu Long, 1988).
32. Trần Xuân Ngọc Lan (phiên âm và chú giải), Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa Nxb Khoa học xã hội, 1985.
33. Lê Xuân Lít (sưu tầm, tập hợp và tuyển chọn), Hai trâm năm nghiên cứu bàn luận Truyện Kiều, Nxb Giáo dục, 2007.
34. Từ Thị Loan, “Nguyễn Du và Truyện Kiều ở nước ngoài”, http:www.tapchisonghuong.com.vn (nguồn: http://www. Văn hoá Nghệ An, vanhoanghean.com.vn/component/k2/30/…)
35. Đặng Thai Mai, “Đặc sắc của văn học cổ điển Việt Nam qua nội dung Truyện Kiều”, Tập san Đại học Sư phạm, số 3, tháng 8-9-10.1955 (in lại trong Nguyễn Du về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002).
36. Nhiều tác giả, Đại thi hào Nguyễn Du và các danh nhân dòng họ Nguyễn Tiên Điền với Thăng Long – Hà Nội, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2011.
37. Thanh Tâm Tài Nhân, Kim Vân Kiều truyện (Nguyễn Khắc Hanh; Nguyễn Đức Vân dịch), Nxb Thế giới, 2021.
38. Hoàng Thị Ngọ (phiên âm, chú thích, giới thiệu), Thiên Nam minh giám, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994.
39. Phan Ngọc, Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1985.
40. Trần Ích Nguyên, Nghiên cứu câu chuyện Vương Thuý Kiều, Nxb Lao động – Trung tâm Văn hoá, Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2004.
41. Hoàng Phê chủ biên, Từ điển tiếng Việt (in lần thứ tư), Nxb Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học, Hà Nội – Đà Nẵng, 1996.
42. Vũ Hào Quang, “Lý thuyết giá trị và mô hình bến đổi giá trị trong nghiên cứu xã hội học”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 3 (76) – 2014.
43. Quốc hội, Luật số 28/2001/QH10 của Quốc hội: Di sản văn hóa.44. Phạm Đan Quế; Truyện Kiều –Đối chiếu; Nxb Hải Phòng, 1999.
45. Phạm Đan Quế, Lục bát hậu Truyện Kiều, Nxb Thanh niên, 2002.
46. Phạm Đan Quế, Truyện Kiều đọc ngược, Nxb Thanh niên, 2002.
47. Phạm Quỳnh, “Văn chương Truyện Kiều”, Tạp chí Nam Phong, số 30.12.1919 (In lại trong Phạm Quỳnh – Thượng Chi văn tập, Nxb Văn học, Hà Nội, 2006, tr.549-593).
48. Phạm Quỳnh, Bài diễn thuyết về Truyện Kiều, đọc trong lễ kỷ niệm ngày mất Nguyễn Du vào 8.9.1924 (nhằm ngày 10 tháng 8 năm Giáp Tý) do Hội Khai trí Tiến Đức tổ chức). Bài, trước đó đã đăng trên Tạp chí Nam Phong, số 86 (8.1924).
49. Radughin A.A (chủ biên), Từ điển bách khoa Văn hóa học, Viện Nghiên cứu Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội, 2002.
50. Rodriget Felich Pita, “Nguyễn Du, nhà thơ vĩ đại của dân tộc Việt Nam”, in trong Kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du (Kỷ yếu), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1967.
51. Roman Jakobson, “Thơ là gì?” (Trịnh Bá Đĩnh dịch), Tạp chí Văn học, số 12.1996.
52. Robin - Jr. Wilhia, International EDCyclopedia of the Social Sciences, V15, 16, 17, 1980 (Nguyễn Đức Truyền dịch, Tạp chí Xã hội học, số 1/1991).
53. Trần Đình Sử, “Nhìn lại 200 năm nghiên cứu ngôn ngữ Truyện Kiều ở Việt Nam”, wordpress.com.
54. Trần đình Sử, Thi pháp Truyện Kiều, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002.
55. Tạp chí Thông tin & Truyền thông: “73 bản chuyển ngữ Truyện Kiều được triển lãm tại Pháp” (ictvietnam.vn), 01/10/2020, 10: 14.
56. Hoài Thanh, Quyền sống của con người trong Truyện Kiều của Nguyễn Du (in lần đầu năm 1949), in lại trong Nguyễn Du về tác gia và tác phẩm (do Trịnh Bá Đĩnh với sự cộng tác của Nguyễn Hữu Sơn, Vũ Thanh tuyển chọn và giới thiệu), Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002.
57. Nguyễn Hằng Thanh, Nghệ thuật tái tạo nhân vật Kiều trong Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du, Nxb Thanh niên, 2003.
58. Đào Thản, “Đi tìm một vài đặc điểm của ngôn ngữ Truyện Kiều”, Tạp chí Văn học, số 1/1966, tr.67–75.
59. Nguyễn Quang Thân, “Sửa hơn 1000 đơn vị từ của Truyện Kiều: Một hành động vô đạo”, http://motthegioi.vn/van-hoa-giai-tri/sua-hon-1000-don-vi-tu-cua-truyen-kieu-mot-hanh-dong-vo-dao-65826.html.
60. Bùi Thiết, Từ điển âm từ cổ “Truyện Kiều” thời Nguyễn Du, Nxb Hồng Đức, 2017.
61. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định 1363/ QĐ-TTg về vệc Phê duyệt Quy hoạch tỉnh Hà Tĩnh thời kỳ 2021-2025 tầm nhìn 2050.
62. Phạm Thiên Thư, Đoạn Trường vô thanh, Nxb Nến Hồng, Sài Gòn, 1972.
63. Phạm Phương Thùy, “Một số vấn đề lý luận về Bảo tồn và Phát huy di sản văn hóa”, hcmuc.edu.vn…
64. Tỉnh ủy Hà Tĩnh, “Nghị quyết 18-NQ.TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hà Tĩnh về xây dựng phát triển văn hóa, con người Hà Tĩnh trong giai đoạn mới”.
65. Minh Tranh, “Xác định giá trị Truyện Kiều”, Tạp chí Văn - Sử - Địa, số 9/1955.
66. Nguyễn Văn Trinh, Kiều - Bình dân học vụ, Sở Giáo dục Hà Nội xuất bản, 1958.
67. Vương Trọng, “Biệt tài vận dụng thành ngữ và cổ thi của Nguyễn Du”, Báo Hà Tĩnh (baohatinh.vn), 03/12/2015 05:24.68. Vương Trọng, “Từ dị bản Truyện Kiều”, https//: nhandan.vn//tu-di-ban-truyen-kieu-post249647.html.69. Đào Thái Tôn, Nghiên cứu văn bản Truyện Kiều, Nxb Khoa học xã hội, 2005.70. Đào Thái Tôn, Văn bản Truyện Kiều, Nghiên cứu và thảo luận, Ban quản lý Khu di tích Nguyễn Du và Trung tâm Văn hóa, Ngôn ngữ Đông – Tây, 2003.
71. Nguyễn Quảng Tuân, Tập Kiều, Vịnh Kiều, Nxb Văn học, 2002.72. Nguyễn Quảng Tuân (phiên âm, khảo dị, chú giải), Truyện Kiều - Bản Nôm cổ nhất 1886, Nxb Thời đại, 2013.73. UBND tỉnh Hà Tĩnh, Kỷ yếu hội thảo: Tiếng Việt trong Truyện Kiều, 2020.74. UNESCO, “Tuyên bố thế giới về đa dạng văn hoá” – Tuyên bố đã được thông qua tại phiên họp toàn thể, kỳ họp 31 của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc ngày 2/11/2001.75. William Outhwaite (2006), The Blackwell dictionary of modern social thought, Blackwell Publishing Ltd, 2006, pp 718-721.
76. Wellek R và Warren A, Lý luận văn học (Nguyễn Mạnh Cường dịch), Nxb Văn học, 2009.
77. Trần Thanh Vân, Đoạn trường nhất thanh, Nxb Kiên Giang, 1990.
78. VOV5, “200 năm Truyện Kiều của Nguyễn Du: những bản dịch” (vovworld.vn),...
79. Trần Hải Yến, Giai nhân kỳ ngộ diễn ca trong dòng văn học duy tân yêu nước đầu thế kỷ XX, Luận án Tiến sĩ, Viện Văn học, Hà Nội, 2002.
Hà Tĩnh tháng 12/ 2024
([1]). M. Robin - Jr. Wilhia, International EDCyclopedia of the Social Sciences, V15, 16, 17, 1980 (Nguyễn Đức Truyền dịch, Tạp chí Xã hội học, số 1/1991).([2]). Khảo sát, nghiên cứu giá trị tiêu biểu của Truyện Kiều trên bình diện nội dung, tư tưởng là đề tài do nhóm khác thực hiện.([3]). Phạm Quỳnh, “Văn chương Truyện Kiều”, Tạp chí Nam Phong số 30.12.1919 (In lại trong Phạm Quỳnh – Thượng Chi văn tập, Nxb Văn học, Hà Nội, 2006, tr.549-593).([4]). Phạm Quỳnh, Bài diễn thuyết về Truyện Kiều, đọc trong lễ kỷ niệm ngày mất Nguyễn Du vào 8.9.1924 (nhằm ngày 10 tháng 8 năm Giáp Tý) do Hội Khai trí Tiến Đức tổ chức. Bài, trước đó đã đăng trên Tạp chí Nam Phong, số 86 (8.1924).
([5]). “Chưa xong điều nghĩ đã dào mạch tương” – Truyện Kiều, câu 238.([6]). Minh Tranh, “Xác định giá trị Truyện Kiều”, Tạp chí Văn – Sử - Địa, số 9/1955.([7]). Xin xem: Nguyễn Trung Hiếu, Về tính hệ thống và đặc trưng của văn học nghệ thuật (Biện Minh Điền sưu tầm, biên soạn và giới thiệu), Nxb Đại học Vinh, 2020, tr.115-137.([8]). Đào Duy Anh, Từ Điển Truyện Kiều, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội, 2000 (in lại theo đúng bản Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974), “Lời đầu sách”, tr.5-6.([9]). Theo thống kê của Đào Thản (trong “Đi tìm một vài đặc điểm của ngôn ngữ Truyện Kiều”, Tạp chí Văn học, số 1/1966, tr.67–75), trong số 3412 từ của Truyện Kiều (Quốc âm thi tập: 2215 từ, Lục Vân Tiên: 2499 từ), có 1310 từ Hán Việt, chiếm 35%, phần chủ yếu còn lại là từ thuần Việt (65%).([10]). Xin xem: Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên), Nxb Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học, Hà Nội – Đà Nẵng, 1996 (in lần thứ tư), mục “Nội dung và cấu tạo của quyển từ điển, và các từ: “ả” (tr.1), “mụ” (tr.626), “chi” (tr.146), “mặt mo” (tr.599).
([11]). Nguyễn Thị Hưởng, “Trường từ vựng thị giác trong Truyện Kiều”, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, Số 8 (178)-2010, tr.29.
([12]). Vương Trọng, “Biệt tài vận dụng thành ngữ và cổ thi của Nguyễn Du”, Báo Hà Tĩnh (baohatinh.vn), 03/12/2015 05:24.
([13]). Khái niệm “tính thơ” khác “chất thơ”. Theo Roman Jakobson, “Chức năng thi ca của ngôn ngữ: đem nguyên lý tương đương của trục tuyển lựa chiếu lên trục kết hợp”, nghĩa là “Tính thơ” có được, do cách sắp xếp cơ bản của ngôn ngữ theo hai trục vừa nêu. Tính thơ được biểu hiện “theo cái cách từ ngữ được cảm nhận như là từ ngữ chứ không phải như vật thay thế đơn giản của đối tượng được chỉ định, theo cách những từ, những cú pháp, những ngữ nghĩa của chúng, hình thức bên trong và bên ngoài của chúng không phải là các dấu hiệu vô hồn của hiện thực mà còn có trọng lượng riêng, giá trị riêng”. Xin xem: Roman Jakobson, “Thơ là gì?” (Trịnh Bá Đĩnh dịch), Tạp chí Văn học, số 12.1996.([14]). Xin xem: Biện Minh Điền, “Sự trải nghiệm, tích hợp các yếu tố văn hoá vùng miền và cảm quan nghệ thuật của Nguyễn Du”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 8.2011 (tr.77- 91).([15]). Phan Ngọc, Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1985.([16]). Trần Đình Sử, “Nhìn lại 200 năm nghiên cứu ngôn ngữ Truyện Kiều ở Việt Nam”, wordpress.com([17]). Trần Đình Sử, “Nhìn lại 200 năm nghiên cứu ngôn ngữ Truyện Kiều ở Việt Nam”, wordpress.com.
([18]). Trần Đình Sử, Thi pháp Truyện Kiều, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002, tr.198.([19]). Trần Đình Sử, Thi pháp Truyện Kiều, Nxb Giáo dục, 2002, tr.242.
([20]). R. Wellek và A. Warren, Lý luận văn học (Nguyễn Mạnh Cường dịch), Nxb Văn học, 2009, tr.430.([21]). Xin xem: Biện Minh Điền, Hệ thống thể loại thuần Việt trong văn học trung đại Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 03/ 2014, tr.41–53.([22]). Xin xem: Nguyễn Quang Hồng, “Khái lược về văn học chữ Nôm ở Việt Nam”, http://www.ivce.org/magazinedetail.ph...([23]). Thiên Nam minh giám (Hoàng Thị Ngọ phiên âm, chú thích, giới thiệu), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994.([24]). Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa (Trần Xuân Ngọc Lan phiên âm và chú giải), Nxb Khoa học xã hội, 1985.([25]). Đặng Thanh Lê, Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1979.([26]). Xin xem Phan Ngọc, Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1985, tr.231–248.([27]). Nguyễn Huệ Chi, “Giai nhân kỳ ngộ diễn ca một thể nghiệm mới của Phan Châu Trinh về truyện thơ lục bát”, http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai9/200609_NHChi.htm.([28]). Trần Đình Sử, Thi pháp Truyện Kiều, Nxb Giáo dục, 2002, tr.242.
([29]). Phan Ngọc, Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1985.([30]). Trần đình Sử, Thi pháp Truyện Kiều, Nxb Giáo dục, 2002, tr.179-312.([31]). Trần đình Sử, Thi pháp Truyện Kiều, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002, tr.214-233.([32]). Phan Ngọc, Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1985.([33]). Trần đình Sử, Thi pháp Truyện Kiều, Nxb Giáo dục, 2002, tr.179-312.([34]). Trần đình Sử, Thi pháp Truyện Kiều, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002, tr.214-233.([35]). Vũ Ngọc Khánh (sưu tầm, biên soạn), Kho tàng giai thoại Việt Nam, Nxb Văn hoá, 1994.([36]). Đào Hoa Mộng Ký (thế kỷ XIX) của Mộng Liên Đình, Đào Hoa Mộng Ký diễn ca (1917) của Hà Đạm Hiên, Kiều Tân thời (1935) của Bạch Diện, Kiều-Bình dân học vụ (1958) của Nguyễn Văn Trinh, Đoạn Trường Vô Thanh (1973) của Phạm Thiên Thư, Đoạn Trường Nhất Thanh (1990) của Trần Thanh Vân, Truyện Kiều đọc ngược (2002) của Phạm Đan Quế.
([37]). Xin xem: Biện Minh Điền, “Nữ sĩ Hồ Xuân Hương với thời gian và tầm vóc một danh nhân văn hoá, một thi hào”, Tạp chí Lý luận Phê bình Văn học-Nghệ thuật Trung ương, số 7.2022, tr.115-120 (cũng in trong Kỷ yếu HTKH Quốc tế Nữ sĩ Hồ Xuân Hương (1772-1822) Danh nhân văn hoá và giá trị di sản, Tập I, Nxb Nghệ An, 2022), tr.19-26.([38]). Hutcheon L, Theory of parody: The teachings of Twentieth Century Art Forms, Universty of Lllinois Press, p.15-18.
([39]). Xin xem: Biện Minh Điền, “Nữ sĩ Hồ Xuân Hương với thời gian và tầm cóc một danh nhân văn hoá, một thi hào”, Tạp chí Lý luận Phê bình Văn học-Nghệ thuật Trung ương, số 7.2022, tr.115-120 ([40]). Phạm Đan Quế gọi là “lục bát hậu Truyện Kiều” trong Lục bát hậu Truyện Kiều, Nxb Thanh niên, 2002.([41]). Theo Tạp chí Thông tin & Truyền thông/ 73 bản chuyển ngữ Truyện Kiều được triển lãm tại Pháp (ictvietnam.vn), 01/10/2020, 10: 14. Còn theo VOV5/ 200 năm Truyện Kiều của Nguyễn Du: những bản dịch (vovworld.vn), Tính đến thời điểm 2020, Truyện Kiều đã trải qua 14 thập kỷ dịch và tiếp nhận, được dịch ra 20 ngôn ngữ, với 75 bản dịch.([42]). Từ Thị Loan, “Nguyễn Du và Truyện Kiều ở nước ngoài”, http:www.tapchisonghuong.com.vn (nguồn: http://www. Văn hoá Nghệ An, vanhoanghean.com.vn/component/k2/30/…)([43]). Trần Ích Nguyên, Nghiên cứu câu chuyện Vương Thuý Kiều, Nxb Lao động – Trung tâm Văn hoá, Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2004, tr.267-278.
([44]). Theo Nguyễn Du về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002, tr.990.([45]). Theo Nguyễn Du về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002, tr.998.([46]). Felich Pita Rodriget, “Nguyễn Du, nhà thơ vĩ đại của dân tộc Việt Nam”, in trong Kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du (Ký yếu), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1967.
([47]). Luật số 28/2001/QH10 của Quốc hội: Di sản văn hóa.([48]). Xin xem: Phạm Phương Thùy, “Một số vấn đề lý luận về Bảo tồn và Phát huy di sản văn hóa”, hcmuc.edu.vn
[49] Đảng Cọng sản Việt Nam: Các Nghị quyết Trung ương của Đảng 2011-2015. NXB CTQG, Hà Nội; 2015, tr. 141,m 142([50]). Nhất Hạnh, Thả một bè lau: Truyện Kiều từ cái nhìn Thiền Quán, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2005.([51]). Hoài Thanh, Quyền sống của con người trong Truyện Kiều của Nguyễn Du (in lần đầu năm 1949), in lại trong Nguyễn Du về tác gia và tác phẩm (do Trịnh Bá Đĩnh với sự cộng tác của Nguyễn Hữu Sơn, Vũ Thanh tuyển chọn và giới thiệu), Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002, tr.497.
Bình luận