logo

Truyện ngắn

KỊch bản Chương trình NT Kỷ niệm 260 năm ngày sinh Đại thi hào Nguiyễn Du

Mang mệnh văn chương thương người thành chữ. Cõi người ai khóc thương người tài danh


  Kịch bản văn học Chương trình nghệ thuật 

ĐẠI THI HÀO NGUYỄN DU

“Cảo thơm lần dở…”

  Chương I:  NGƯỜI MANG MỆNH VĂN CHƯƠNG

                          (Tiếng vọng trên nền nhạc mang âm hưởng Ca trù):

Trời mở hướng bao la

Dằng dặc Hồng Lam một cõi

Đất sinh người tài giỏi

Lưu truyền văn hiến ngàn năm.

          Ca khúc: Nguyễn Du

Nhạc:  (Đặt hàng)                           Lời: (Có bản kèm)

Biểu diễn

Biên đạo

 Lời dẫn:  Nguyễn Du tên tự là Tố Như, hiệu Thanh Hiên, sinh ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu (1765) niên hiệu Cảnh Hưng thứ 26 đời vua Lê Hiển Tôn, tức ngày 3- 1- 1766 tại Phường Bích Câu, Thăng Long (nay thuộc Hà Nội). Thân sinh Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm (1708 -1775) đậu nhị giáp Tiến sỹ làm quan Tể tướng, tước Xuân Quận Công, là sử gia, nhà thơ. Quê tổ Nguyễn Nghiễm ở làng Canh Hoạch, Thanh Oai, trấn Sơn Nam; quê sinh ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Dòng họ Nguyễn Du không những nổi tiếng về khoa hoạn mà còn sinh ra nhiều bậc anh tài trong văn chương.  

  Thân mẫu Nguyễn Du là bà Trần Thị Tần (1740-1778) sinh ra và lớn lên trong một gia đình danh gia vọng tộc ở thôn Hoa  Thiều, huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh. thuộc dòng dõi tiến sỹ Trần Phi Chiêu, làm quan đến chức Thượng thư bộ Hộ, kiêm Đô Ngự Sử, tước Diên Quận công. Bà  là một phụ nữ nết na, thông minh, xinh đẹp, nổi tiếng hát hay khắp vùng Kinh Bắc.

………………………………………………………………………………………………..

Lời dẫn : Ngay từ thuở ấu thơ Nguyễn Du đã được mẹ nuôi dưỡng bằng lời ru, khúc hát các làn điệu Quan họ ân tình, mượt mà, làn điệu Trống quân nồng nàn, sâu lắng Xứ Kinh Bắc; và người dân, các tài tử văn nhân Xứ Nghệ, anh em dòng họ Nguyễn Tiên Điền thì nhuần thắm tâm hồn Nguyễn Du bằng bằng những làn điệu dân ca Ví - Giặm Xứ Nghệ đằm thắm, nghĩa tình.

Trích đoạn sân khấu

(Phòng khách gia đình Nguyễn Nghiễm. Bên bộ bàn ghế khảm xà cừ, phía trong là giá sách, bà Trần thị Tần và Nguyễn Du ( 10 tuổi), ngồi cạnh nhau.)                    

 Lược dẫn:

Thuở nhỏ Nguyễn Du rất thông minh. Sáu tuổi bắt đầu đi học; học giỏi, đọc rất nhiều sách.Bố Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm, giữ chức Tể tướng quân, Tham tán quân cơ. Là sử gia, nhà thơ nhưng ông bận việc triều chính, thời gian dành dạy dỗ Nguyễn Du không được bao nhiêu. Nguyễn Du ở bên mẹ, hưởng sự dưỡng dục của mẹ .

Bà Tần: (Với Nguyễn Du)- Có ai đến ngoài sân, con ra đón xem.

Nguyễn Du: -Dạ, Mẹ.

( Việp Quận công Hoàng Ngũ Phúc vào).

Bà Tần: Ôi, cơ duyên nào  mà được đón Tướng quân tại nhà thế này.

Hoàng Ngũ Phúc: - Nhân có việc vào kinh, tôi rẽ vào thăm sức khỏe chị và cháu Du.

Bà Tần: Đa tạ Tướng quân.

Hoàng Ngũ Phúc: (Kéo Nguyễn Du vào lòng) -Cậu nhỏ có tướng mạo thật khôi ngô, đĩnh ngộ, lại sinh vào năm Ất Dậu    Người tuổi này có tính cách phức tạp, đa mang đa cảm, đầu óc sáng suốt, giỏi thi thư. Thời buổi bất an này, Chị nên hướng cho cháu theo đường binh nghiệp.

Bà Tần: - Cha cháu suốt ngày đêm lo việc triều đình, tôi thì chỉ dạy được cho con thấu hiểu văn hóa xứ kinh Bắc qua các làn điệu dân ca Quan họ. Còn thì cháu tự học hỏi trong sách. Xem ra cháu năng khiếu thi thư hơn là cung kiếm. Thôi đành để cháu theo lẽ tự nhiên mà phát triển thôi ạ.

Hoàng Ngũ Phúc : - Chị nói cũng phải. Ai biết hay đây mà tìm, dở đâu mà tránh. Tôi có mang theo thanh kiếm cổ với ý định tặng cháu Du nhưng giờ thì thôi, mai kia tôi sang tặng cháu bút, nghiên vậy.

Nguyễn Du: Thưa Bác, cháu đọc trong sách gặp câu: “Bản vô văn tự năng tăng mệnh”, nói vậy có đúng không ạ.

Hoàng Ngũ Phúc : Phải. Văn chương không ghen gì mệnh ?

Nguyễn Du: -Dạ. Lại còn câu:” Hà sự kiền khôn thác đố nhân”?

Hoàng Ngũ Phúc: Nói là tạo hóa ghét ghen người mang mệnh văn chương, thì Bác nghĩ không phải. Mà lâu nay cháu đọc những loại sách gì?

Nguyễn Du: Dạ, cháu đọc  sách Nho, Lão, Phật, Văn chương cổ, kim của nước Việt ta và cả của Trung Quốc. Trong thư viện Bác Khản có đủ các loại sách ạ  

Bà Tần: Suốt ngày cứ thấy cháu căm cụi với sách với bút nghiên

Hoàng Ngũ Phúc: Tốt quá. Có chữ trong đầu, có tình trong tâm, cháu cứ nghe tiếng lòng mình mà chọn lấy đường đi cho mình. Mai kia đời có bị “Hà sự kiền khôn thác đố nhân”, tạo hóa có ghét cũng chỉ là một lẽ thường tình trong hàng trăm, hàng ngàn lẽ thường tình của đời người.

Nguyễn Du: Dạ, Bác…

 Hoàng Ngũ Phúc : -Thôi, thấy hai mẹ con chị bình yên là yên tâm.  tôi xin cáo từ. Chúc chị khỏe mạnh, chúc cháu làm nên nghiệp lớn.

Bà Tần: - Mẹ con tôi xin cảm ơn Tướng quân…

(Hai mẹ con bà Tần tiễn Hoàng Ngũ Phúc.)

 Ví đò đưa:          Mang mệnh văn chương thương người thành chữ.

                  Giữa bao dâu bể, chữ thấm nước mắt nhân quần

                  Ngổn ngang thời thế xoay vần

                   Cõi người ai khóc thương người tài danh  

    Lời dẫn:   -Lời dẫn:  Những biến cố của thời đại và cuả gia đình đã đẩy Nguyễn Du ra giữa bao táp cuộc đời. Năm 1776, Nguyễn Nghiễm đi dẹp giặc phương Nam dọc đường trở về gặp bạo bệnh và mất tại quê nhà Nghi Xuân. Ba năm sau, năm 1778, bà Trần Thị Tần mất. 11 tuổi, Nguyễn Du thành trẻ mồ côi. Bốn anh em cùng mẹ với Nguyễn Du phải đến ở nhờ nhà Nguyễn Khản, người anh cùng cha khác mẹ. Năm 1780, Nguyễn Khản bị khép tội mưu loạn, bị bắt giam. Nguyễn Du được Đoàn Nguyễn Tuấn, một người bạn văn chương, đón về Quỳnh Côi, trấn Sơn Nam Hạ, (nay là Quỳnh Phụ, Thái Bình) tiếp tục học tập. Năm 1783, Nguyễn Du thi hương đậu Tam Trường. Ông lấy vợ là Đoàn Thị Huệ, con Đoàn Nguyễn Thục, em Đoàn Nguyễn Tuấn và lên Thái Nguyên làm Chánh thủ hiệu quân Hùng hậu..

   -Lời dẫn:- Năm 1786, quân Tây Sơn ra Bắc. Nguyễn Huệ cưới Ngọc Hân Công chúa, phù Chiêu Thống lên ngôi rồi rút quân về Nam. Quan lại, tôi tớ chúa Trịnh gây sức ép với vua Chiêu Thống. Năm 1787, Chiêu Thống rước Tôn Sỹ Nghị  cùng 20 vạn quân vào Thăng Long  để “Phục Lê”. Trong Nam, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, lại kéo quân ra Bắc. Sỹ phu Bắc Hà bị phân hóa sâu sắc. Mấy anh em Nguyễn Du mỗi người mỗi quan điểm: Phù Lê hay theo Quang Trung. Nguyễn Du lạc lõng, cô đơn giữa một triều đình ngổn ngang, rối bời phe phái, còn trong lòng thì nhói đau, u uất nỗi quan hoài  Lê - Trịnh giằng xé với bổn phận kẻ tôi trung.

  Trich đoạn sân khấu: (Nguyễn Nễ, Nguyễn Du và Đoàn Nghĩa Tuấn)  

    ( Hai anh em: Nguyễn Nễ, Nguyễn Du và Đoàn Nguyễn Tuấn ngồi bên bộ tràng kỹ khảm ngọc trai trong nhà Đông các Đại học sỹ Nguyễn Nễ.  Cạnh đấy là người bạn Nguyễn Du, Đoàn Nguyễn Tuấn).

Nguyễn Nễ: (Với Nguyễn Du)- Chú quyết định thế nào?

Nguyễn Du: - Tâm trạng em rối bời. Em chưa thể quyết định được việc gì khi ý nghĩ trong đầu, tình cảm trong tim đang như cỏ rối.

Nguyễn Nễ: Anh biết chú nghĩ là nhà họ Nguyễn Tiên Điền chịu nhiều ân trạch của nhà Lê, thì phải giữ mối cô trung. Nhưng nay vương triều nhà Lê đã bươm nát ra như thế mà ta vẫn giữ trung quân ư? Bạn bè chú đã lần lượt ra giúp Tây Sơn:Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Thiếp…rồi mấy người cháu của chú Nguyễn Công, Nguyễn Thiện đều thấy sự nghiệp Lê Trung Hưng, mọi giá trị của nó đã phá sản, cần thay bằng  một chế độ mới.

Nguyễn Du: Nhìn rộng ra thì sao. Nhắm mắt em vẫn thấy sỹ phu, trí thức, quan lại Bắc Hà lặng lẽ nhìn 12 đời Trịnh vương tuột xuống vực sâu, bao người lấy tư tưởng chống Tây Sơn cứu Lê Trịnh là chính sự của mình chỉ là trên lời nói, trong thơ văn. Rồi số cho rằng anh hùng áo vải Nguyễn Huệ không thể có chân mệnh thiên tử… Sau khi Bác Khản chịu án oan, em hiểu ra nhiều điều. Nhưng cái sự hiểu đến thực thi lý tưởng còn bao sự khác thuộc về người và thuộc về mình.  Em là kẻ mềm yếu…mà mềm yếu thì làm sao có chính sự được…

Nguyễn Nễ: Em tự vận vào mình, chứ một người thông làu kinh sử như em thì chính sự là đường chỉ lòng bàn tay.

Nguyễn Du: Thì hỏi em làm được gì, khi sỹ phu, trí thức, quan lại Bắc Hà lặng lẽ nhìn 12 đời Trịnh vương tuột xuống vực sâu, bao người lấy tư tưởng chống Tây Sơn cứu Lê Trịnh là chính sự của mình chỉ là trên lời nói, trong thơ văn. Rồi số cho rằng anh hùng áo vải Nguyễn Huệ không thể có chân mệnh thiên tử…Thế sự này, em không nghĩ rành mạch được đạo lý, pháp lý, chân lý, ngụy lý của quyền thế, đành xin nhận thân phận của kẻ yếu mềm tránh ra lề đường vậy.   

Nguyễn Nễ: (Với Nguyễn Du) Chú và tôi đều thuộc dòng dõi thi thư khoa bảng Nguyễn Tiên Điền, đủ tâm, trí để hiểu biết thời thế, thời vận thịnh, suy, để chọn lấy đường đi cho mình sao lại thu mình làm kẻ mềm yếu?

Nguyễn Du: Xin anh đại xá…

Đoàn Nguyễn Tuấn: Không có ai có thể đứng ngoài cuộc hưng, vong của đất nước. Nay mọi sự đã rõ rành. Tây Sơn có sức mạnh không triều đại nào có được; vì Tây Sơn có đạo lý với nhân quần, còn Triều đình Lê- Trịnh thì nằm cả trong tay Càn Long, đến niên hiệu cũng không còn. Thăng Long còn gì để níu kéo chú, sao chú cứ băn khoăn, bịn rịn. Hãy đi cũng Bác Nễ và tôi. Chúng tôi sẽ tiến cử chú với tân Hoàng đế, một người đã lập nhiều kỳ công hiển hách lại biết chiêu sỹ, đãi hiền.  

 Nguyễn Du: Đa tạ Bác và anh Tuấn đã có lòng lo lắng cho ngu đệ. Nhưng tâm em chưa bình. Cái chất người, cái phận em nó ra thế. Tha lỗi cho em. Em không thể theo bác Quýnh phò Lê, không thể theo bác Điều an phận chờ thời, cũng chưa thể theo bác Nễ và anh Tuấn…

  Nguyễn Nễ: Vậy chú đi đâu? Về đâu?

Nguyễn Du: Em sẽ di khắp Kẻ Chợ, sang Bắc Ninh về Thái Bình, vào Xứ Nghệ… Em đi về phía nhân quần, phía có bao phận người khổ đau, cơ cực

Nguyễn Nễ: Em làm được gì cho họ hay chỉ những câu thơ đẫm lệ?

Nguyễn Du: Mệnh em nó thế. Có thể chỉ những câu thơ, nhưng  không phải em cho họ gì mà là họ cho em cảm giác, cảm xúc, những trải nghiệm về máu và nước mắt người lương thiện.

Nguyễn Nễ: - Chao ôi, cái tâm tính của chú vẫn như xưa. Đời thì vô thường. Bác Khản mới đó mà đã qua giỗ Đại tường. Chú phải tính sao để Bác an lòng.  (đi đến trước bàn thờ Nguyễn Khản, thắp ba nén hương, vái và cắm vào lư hương):

Anh ở lại cùng non ngàn Hồng Lĩnh

          Thảnh thơi trong giấc ngủ thiên thu

Em từ tạ kinh thành trắng nhuốm màu Ải Bắc

            Nhìn mây trôi xanh biếc phía Hoành Sơn 

 Nguyễn Du: ( Nhìn lên ban thờ, chắp tay vái lạy )  

 Nguyễn Nễ: Nếu chú chưa dứt khoát xuất chinh lúc này thì hãy về Quỳnh Côi một thời gian. Khi thuận, Anh sẽ về đón chú.

  Đoàn Nguyễn Tuấn: - Tôi tin sẽ đến lúc chúng ta lại gặp nhau… ở phía Phú Xuân…

  Nguyễn Du: (một mình): Cầu mong các anh được bình an.

  (Nguyễn Du tiễn chân Nguyễn Nễ và Đoàn Nguyễn Tuấn ra cửa, trở vào đứng lặng giữa nhà):

Thế sự vần xoay, gia đình ly tán

Hoành Sơn cắt kẻ Bắc người Nam

 Em đơn độc giữa bốn bề sương giá

              Thương thân mình quặn thắt tim gan

Ca khúc: Trăng rơi

Nhạc:  Đỗ Hồng Quân ;      Lời :  Đức Ban  

Biểu diễn:

Biên đạo:

             Chương II:  “CẢO THƠM LẦN DỞ…”

Lời dẫn:  Chia tay  Nguyễn Nễ, Nguyễn Du lại quay về Thái Bình tá túc tại nhà bố vợ là Đoàn Nguyễn Thục. Thời gian ăn nhờ ở đậu quê vợ là những năm tháng bí bách cùng cực của Nguyễn Du, đói không cơm ăn, rét không có áo mặc.  Ông gọi đấy là thời gian “gió, bụi” ; “Gió” là lạc loài, “bụi” là vô danh. U buồn, lặng lẽ suy tư về sự lạc lõng của mình,.  Cửa cài sớm muộn mặc xuân/ Chỉ hay vườn đã rụng tàn hoa lê .

Lời dẫn: Đấy là quãng thời gian “Thương thay tóc bạc già rồi / Non xanh chưa kịp chán người ở lâu/ Quê người níu giữ chi nhau/  Bên bờ sông Tuế ốm đau nằm hoài.”là những ngày đêm ngậm ngùi về thân phận của mình: Đoạn cỏ bồng trước gió lay / Đố ai biết được sau này về đâu.

           Trích đoạn sân khấu ca kịch

       (Trong gian nhà chật, thưng phên nứa, cửa chính, cửa sổ mở toang. Ánh sáng vừa đủ để nhìn thấy nhau. Đoàn Thị Huệ - Vợ Nguyễn Du, xuất hiện) .

 Đoàn Thị Huê:  (Gần như hốt hoảng):

        -Chàng ơi, chàng không sao chứ?

Nguyễn Du: Ta vừa trải qua một giấc mơ đầy khi lạnh. Nhiều vong hồn của nhiều kiếp người từng sống với bao nỗi oan khiên não ruột trên cõi trần, họ tìm đến đây, họ vây quanh ta đòi được yêu thương, đòi những câu thơ chiêu hồn để siêu thoát.

Đoàn Thị Huê:

Thiếp thấy chàng luôn chìm trong u uất

Đêm năm canh , tóc bạc cạn đèn dầu

Thương chàng qua sông chưa hết khúc nông, sâu

Ví rằng thiếp gánh được nỗi sầu chàng mang

Nguyễn Du:

Nàng là bờ vai cho ta tựa tấm thân gầy

Là quầng lửa sưởi lòng ta đêm đông tàn giá lạnh

Ở bên nàng thế sự bỗng hư không

Chỉ còn lại thăm thẳm tình chồng vợ.

(Tự thoại):

“Võ, văn túng kế sinh nhai

Thời gian nhuốm bạc mái đầu ích chi”

Đoàn Nguyên Thục (Từ ngoài vào):- Tự dằn vặt, dày vò mình chỉ thêm bạc tóc, lối đi; nẻo về không vì thế mà sáng tỏ. Con hơn bao người cái trí uyên thâm, cái tâm trong sáng, sâu nặng nghĩa tình với đời, với người thì hãy theo cái trí ấy, cái tâm ấy mà đi. Thiên hạ là biển mênh mông, là rừng thăm thẳm, người đi sẽ thành lối, thành đường.

Nguyễn Du: -Thưa nhạc phụ. Hôm nay tại nhà con xin phép nói ra cái ý nghĩ từng thao thức trong tâm trí con. Rằng là con xin phép được đem vợ con về quê cha đất tổ. Long mạch, huyệt đạo đất Tiên Điền giúp con làm nên chính sự gì chăng.

Đoàn Nguyễn Thục: Lá rụng về cội, chim bay về tổ. Tiên Điền Nghi Xuân Hà Tĩnh là chốn “Hồng Lĩnh sơn cao/ Song Ngư hải khoát/ Nhược ngộ minh thời/ Nhân tài tú phát, là nơi an nghỉ của  “Lưỡng triều danh tể tướng, Tứ hải đại nho sư” thân phụ con.

            Ca khúc : Duyên nợ Nghi Xuân

Sáng tác: Ngọc Thịnh        Biểu diễn:

Biên đạo:     

Lời dẫn: Năm 1802, Nguyễn Du được Gia Long, sau khi diệt Tây Sơn, triệu ra làm Tri huyện Phù Dung, Phủ Khóai Châu, trấn Sơn Nam (Nay là Hưng Yên). Mấy tháng sau, ông được thăng lên làm tri phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng.   Năm 1805, ông lại được gọi về kinh, thăng lên chức Đông các Điện học sỹ, tước Du đức hầu. Ông trải ba triều đại mà không thuộc triều đại nào. Bao nhiêu năm chỉ đứng ngoài lề lặng lẽ nhìn thế giới chung quanh. Ông ra làm quan với tâm thế không nhập cuộc nhưng phải nhập cuộc. Ông được tin dùng, được giao trọng trách đi sứ. Nhưng ông làm vì phải làm, ông không chống đối, không hòa nhập, không thờ ơ, không chối bỏ, ông sống bằng nỗi lòng riêng với tâm thế riêng, sống bằng con chữ, bằng  nỗi cô đơn với sự thấu hiểu con người, cuộc đời.

 Lời dẫn: Năm 1809 Nguyễn Du được cử ra Quảng Bình, đảm nhận  chức Cai bạ và ở đó liền 4 năm. Đây là khoảng thời gian rất có ý nghĩa trong cuộc đời nhà thơ: Nguyễn Du dốc toàn tâm lực hoàn thành các tác phẩm đồ sộ của mình.

               

         Trích đoạn sân khấu ca kịch:

(Trong một căn phòng rộng, Nguyễn Du ngồi cùng Đoàn Nguyễn Tuấn. Cạnh họ có mấy gia nhân đang xếp sách vở.  Trước họ ngồn ngộn sách vở, giấy tờ.  

Nguyễn Du:  ( Với Đoàn Nguyễn Tuấn)- Anh đến với tôi thật đúng lúc. Tôi mừng lắm. Bạn bè văn chương từng nghĩ là tri âm vậy mà từ bữa ông và anh Nễ về Tiên Điền đón tôi vào ra mắt Hoàng Thượng ở Phú Xuân, nay mới gặp lại nhau.

Đoàn Nguyễn Tuấn: Việc triều đình quá bộn bề. Anh còn thêm việc văn chương nữa, việc quê hương, họ tộc, rồi bè bạn xa, gần, rồi ký ức. Những ký ức vừa đẹp vừa xa xót về những người đàn bà anh từng gặp. Những cô Uy, cô Sạ Phường vải, cô Cầm gảy đàn thành Thăng Long, cô Xuân Hương ở hồ Sen Nghi Tàm…

Nguyễn Du: Ôi, anh như đi guốc trong bụng tôi. Nhắc chuyện, hình ảnh xưa lại hiện, thêm sầu hận.  Dạo tôi lên nhà bác Nguyễn Nễ ở dinh thự Kim  lâu, cùng nàng Xuân Hương, chèo thuyền hái Sen, xướng họa thơ văn trên Hồ Tây, tôi đã nghĩ, duyên phận của mình là ở cô gái xinh đẹp thông minh, sắc sảo cùng quê nội, ngoại, cùng hoàn cảnh mồ côi.   Thế nhưng, vì sự cố gia đình ở Tiên Điền đành cam lỗi hẹn hò. Tôi chia tay nàng, về quê chịu tang vợ, rồi ra làm quan.  Chữ tình chốc đã ba năm vẹn/ Giấc mộng rồi ra nửa khắc không/…   Buồn, thật buồn anh ạ.

Đoàn Nguyễn Tuấn: Tôi hiểu, tôi thấm thía mà.  

 Nguyễn Du: Thời gian như bóng chim câu. Tóc bạc, tay run, mắt nhòe…Cứ lo những dự định vì đời vì người anh nói ấy không còn thời gian thực hiện. (Như một mình) Bao nhiêu trang sách mà chưa ghi hết nỗi đau khổ, trầm luân của nhân quần.

Đoàn Nguyễn Tuấn:   “Trăm năm bao chuyện đau lòng”…

 Nguyễn Du: (Trong một cơn xúc động, với Đoàn Nguyễn Tuấn): Tôi đã nhỏ lệ cho Thanh  Hiên thi tập, Nam Trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục; đã thao thức cùng Thác chàng trai phường nón, Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu; đã khóc cho  Long thành cầm giả ca, Văn tế thập loại chúng sinh?. Cuối đời trải bao bể dâu mới thấy Đoạn trường tân thanh chắp bút bao năm nay mới là máu thịt của mình…

Đoàn Nguyễn Tuấn: Tôi đã đọc bản thảo Đoạn trường Tân thanh , anh Nễ chuyển cho từ đầu năm nay. Đấy là những con chữ anh viết cho người sống và cả người đã chết.  Những con chữ, tôi thấy như nó được anh chắt từ máu và nước mắt.

Nguyễn Du: Cả đời tôt, tôi chỉ mỗi khát khao loài người từ vua quan, quý tộc đến người bình dân cày cuốc, cấy hái ruộng đồng , trèo non kiếm củi, lặn sông bắt cá, nhặt tôm…đến muôn thú, cỏ cây, côn trùng… yêu thương nhau, sống yên bình, hòa thuận…

Đoàn Nguyễn Tuấn: Đấy là những mong muốn chính đáng của những con người tử tế.

 (Âm nhạc. Đoàn Nguyễn Tuấn và gia nhân xếp những tập bản thảo ngay ngắn trên bàn rồi ngồi nhìn như bị thôi miên.)

Lời dẫn: Trước tác của Nguyễn Du vô cùng đồ sộ. Riêng Thơ chữ Hán của   ông có ba tập với 250 bài. Thanh hiên thi tập viết khi còn trẻ, ngập tràn cảm giác phiêu bạt, sự vô thường của quyền thế, những hư danh, những mỏi mệt. Nam trung tạp ngâm, là những suy nghĩ về cái chết, về sự rỗng không, một tiếng thở dài bất lực trước thời thế. Bắc hành tạp lục là sự cô đơn của trí tuệ tỉnh táo nhất khi đối mặt với nền văn hóa Trung hoa vừa ngưỡng vọng, vừa bi thương.  Nguyễn Du là người duy nhất không nói những cái người khác đã nói hay sẽ nói, và cũng chỉ nói bằng ngôn ngữ linh diệu của dân tộc Việt. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du với những tầng lớp ngữ nghĩa, điển cố, độ sâu lịch sử, nặng trĩu một nỗi buồn thương, như là một chỗ ẩn trú cuối cùng của một tâm hồn cô độc.

Tác phẩm lớn nhất của Nguyễn Du là Truyện Kiều. Hàng trăm năm Truyện Kiều đã trở thành một hiện tượng độc đáo có một không hai trong đời sống tinh thần dân tộc, thâm nhập sâu rộng vào sinh hoạt văn hóa vào nhận thức và sáng tạo của cá nhân cũng như cộng đồng.

Lời dẫn: Truyện Kiều là nơi gửi gắm tình yêu thương của ông trước nỗi đau của thời đại qua những kiếp người, những số phận. Nguyễn Du lăn lộn trong cuộc sống nhân quần, đã lắng nghe được tâm hồn và nguyện vọng của nhân dân, ý thức được những vấn đề trọng đại của cuộc đời và với tài năng siêu việt của mình ông đã làm cho những vấn đề trọng đại ấy trở thành bức thiết hơn, da diết, ám ảnh hơn. Những nhân vật của ông trở thành những thân phận nhức nhối lòng người hàng trăm năm qua. 

Tất cả được nói lên, được truyền tải qua không gian, thời gian bằng một thứ ngôn ngữ linh diệu“ lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu”.

Lời dẫn 1: Truyện Kiều dài 3.254 câu thơ lục bát, với một chuỗi chuyện mà nhân vật trọng yếu nhất  là Thúy Kiều, một giai nhân tuyệt sắc,  con nhà khuê các. Trong hồi thứ nhất “ xấp xỉ tới tuần cập kê”, gặp tiết Thanh minh cùng hai em đi tảo mộ “ “Ngổn ngang trăm mối bên lòng/ rộn đường gần với nỗi xa bời bời”. Nàng gặp Kim Trọng “Người đâu gặp gỡ làm chi/ Trăm năm biết có duyên gì hay không”. Rồi thì” Xắn tay mở khóa động đào/ Rẻ mây trông tỏ lối vào thiên thai”.

Lời dẫn 2: Chẳng may gặp cơn gia biến. Kiều bán mình cứu cha. Và sa chân vào nơi buôn phấn bán son, lẽ nên chết cho được tấm thân trong sạch ngay lúc về với Mã Giám sinh nhưng lo sợ” Sau dù sinh sự thế nào/ Truy nguyên chẳng kẻo lụy vào song thân”. Nàng  lại rơi vào tay Tú Bà, lại mắc mưu Sở Khanh. Mặt dạn mày dày, mua về bán đi, ong qua bướm lại, Kiều phải thốt lên”Tấm lòng trinh bạch từ sau xin chừa”.

Lời dẫn 3: Cá nước duyên ưa, lấy được Từ Hải.” Vinh hoa bỏ lúc phong trần/ Chữ tình ngày lại thêm xuân một ngày”.Nhờ tay uy võ của chồng Kiều “Báo ân, báo oán”. Chẳng may gặp kẻ tiểu nhân là mệnh quan Triều đình lừa dối mà  nàng  khuyên Từ Hải ra hàng.”Trên vì nước dưới vì nhà/ Một là đắc hiều hai là đắc trung”.

Lời dẫn 4: Cuối cùng tuy đã đem mình bỏ am mây, nhưng mười lăm năm ấy đã vì chữ hiếu trải bao phen mưa dập gió vùi, nay trở về nhà này mẹ, này cha một nhà xum họp. Kim Kiều tái hợp. “Một nhà phúc lộc gồm hai/ Nghìn năm dằng dặc quan giai lần lần”

 ( Sân khấu tràn ngập âm thanh, da diết, khắc khoải)

         Ca khúc: Ngàn năm vẫn hát

         Sáng tác: Mạnh Chiến

         Biểu diễn:

         Biên đạo:

 Chương III: “NGUYỄN DU VIẾT KIỀU ĐẤT NƯỚC HÓA THÀNH VĂN…”

  Lời dẫn:  Tác phẩm của Nguyễn Du; đặc biệt là Truyện Kiều là cuốn thánh kinh của suy tư, vui, buồn, yêu thương, hờn giận của con người. Ai cũng tìm thấy sự đồng cảm của Nguyễn Du với những trạng thái tình cảm hỉ, nộ, ái, ố của mình giữa cuộc sống trần thế ngổn ngang. Truyện Kiều đã trở thành Bách khoa toàn thư của hàng ngàn tâm trạng; một niềm tin, một đức tin trong dân gian, nơi người ta gửi gắm, nhờ cậy phù hộ, độ trì với tâm nguyện thành kính...

 Lời dẫn: - Nhân dân đã sáng tạo nên những  thể tài văn nghệ dân gian bắt nguồn từ Truyện Kiều đặc sắc: Vịnh Kiều, Phú Kiều, Tập Kiều Lẩy Kiều, Bói Kiều, Đố Kiều, Đối đáp Kiều, Hát thơ Kiều… Suốt hàng trăm năm, loại hình văn nghệ dân gian này trở thành niềm say mê của người bình dân đến vua chúa, quan lại, nhà nho, trí thức, nghệ nhân, văn nghệ sỹ khắp Bắc Trung Nam. Thời đương đại, những diễn dịch nghệ thuật dân gian từ Truyện Kiều, sống trong tâm thức bao thế hệ người Việt:  

        Trích  Hoạt cảnh dân ca: Kim- Kiều tái hợp +

         Trò Kiều cổ: Kim Trọng- Thúy Kiều

      Lời dẫn:  Truyện Kiều thành Phim, thành  Kịch nói, kịch thơ, Tuồng, Chèo, Cải lương…Những loại hình nghệ thuật lấy cảm hứng từ Truyện Kiều đã và đang làm giàu bản sắc văn hóa dân tộc. Vịnh Kiều, Lẩy Kiều đi vào ngoại giao, vào xã hội… Truyện Kiều trong túi áo ngực người chiến sỹ Cọng sản ra Pháp trường, Truyện Kiều theo bước chân của hàng vạn thanh niên đi đánh giặc.  

  Hợp xướng: “ Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn” trên âm hưởng bài thơ cùng tên của Chế Lan Viên .                    

     

   Lời dẫn: Năm Canh Thìn , năm 1820, Minh Mệnh lại cử Nguyễn Du làm Chánh sứ đi Trung quốc để xin cầu phong, nhưng ông chưa kịp đi thì bị bệnh. 

Hoạt cảnh ca kịch :

 (Nguyễn Du nửa nằm nửa ngồi ngồi  trên chiếc chiếu hoa trải trên một tấm phản gỗ rộng. Xung quanh ông ngổn ngang những tờ bản thảo. Gần đó một người đàn bà trạc 45-50 tuổi đang chiêu thuốc trong cái siêu đất ra bát sứ.)  

Sân khấu lãng đãng sương khói. Tiếng đàn nguyệt thao thiết).

Nguyễn Du: (Với người đàn bà) - Sao bà biết tôi về đây?

Người đàn bà: Em vô Quảng Bình được tin ngài lâm bệnh, đã được quân lính đưa về Kinh. Cứ theo hướng Nam em đi. Xưa kia ta từng hát:

Mang theo câu hát quê nhà

Lạc trong thiên hạ để mà tìm nhau.

 Nguyễn Du (Như tự thoại) : -Phận người có có không không…Hôm nay sao ta muốn nghe tiếng nói của vợ con ta, muốn nghe câu ví Phường vải, tiếng đàn nguyệt và cả tiếng sóng vỗ mạn thuyền trên hồ sen xa xưa ấy…

        Cảnh ước lệ phục hiện :

     - Lời dẫn: Năm 1791, Nguyễn Du lên Thăng Long sửa gác tía  cho nhà Nguyễn Khản, gặp Hồ Xuân Hương trên bến Trúc, Hồ Tây và sau đó họ cùng nhau đi hái hoa sen, xướng họa thơ văn.

          Nguyễn Du : Hoa sen ai cũng ưa,/ Cuống sen nào ai thích/ Trong cuống có tơ mành/ Vấn vương không thế dứt… Trong mộng thấy rõ ràng/ Tình ta trên bến sông/ Nghẹn ngào không kể xiết/… Người đẹp không thấy nữa/ Vò rối mối tơ lòng…

      -  Hồ Xuân Hương :

      Chữ tình chốc đã ba năm vẹn/ Giấc mộng rồi ra nửa khắc không/… Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập/ Phấn son càng tủi phận long đong / Biết còn mảy chút sương siu mấy/ Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng chong... 

  Nguyễn Du (như sực tỉnh, nói như tiếng thở dai) :

-  Thôi rồi…Nếu có kiếp khác…  

  Người đàn bà:

 “Muôn nhờ đức Phật từ bi,

Giải oan, cứu khổ, hồn về tây phương… “

 Nguyễn Du: - Hồn về Tây phương. …

(Nói xong thì lặng lẽ nhắm mắt)

Tiếng người đàn bà : Ngài ơi…Chàng ơi…

(Sân khấu sáng mờ, khói hương lãng đãng, nhiều ngọn nến lung linh. Tiếng tụng kinh. Tiếng chuông chùa rền vang. Tiếng đàn nguyệt. Những nhân vật trongTruyện Kiều, quân lính và dân thường nối nhau đi sau các nhà Sư trong tiếng hát kể kệ:” Trăm năm trong cõi người ta/ Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau? Trải qua một cuộc bể dâu/ Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”…). Họ chắp tay trước ngực đứng vây quanh Nguyễn Du.)

                             Âm nhạc khắc khoải, đau thương.

Lời dẫn: Nguyễn Du, sinh ra trong nhung lụa, lớn lên trong tan hoang, trầm mình trong ẩn dật, một kẻ sỹ thời phong kiến, một quan lại bất đắc chí, một người trầm ngâm giữa thời cuộc đảo điên, một nhà thơ dùng chữ nho phương Bắc để kể nỗi đau nước Nam, những con chữ chạm vào lòng người, ở lại trong lòng người như một đạo lý.

   Nguyễn Du qua đời vào ngày 16 tháng 9 năm 1820, hưởng thọ 54 tuổi. Mộ ông được an táng tại  thôn Bàu Đá xã An Ninh, huyện Quảng Điền, tỉnh thừa thiên Huế. Năm 1824, con trai đưa ông về quê Tiên Điền, Nghi Xuân Hà Tĩnh, nằm giữa cánh đồng Phớc “cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.”. Nơi nhà thơ an nghỉ, không khi nào vắng người đến thăm và dâng hương tưởng nhớ.   

        Lời dẫn: Trước tác của Nguyễn Du vô cùng đồ sộ. Riêng Thơ chữ Hán của ông có đến 250 bài nặng trĩu một nỗi buồn đau bi thiết, một mối quan hoài dằng dặc.  Nhưng tác phẩm lớn nhất của Nguyễn Du là Truyện Kiều, có một không hai trong văn học Việt Nam, đã từng đồng hành với bất cứ ai yêu ngôn ngữ Việt, tâm hồn Việt. Đến năm 2025 này Truyện Kiều đã được in, xuất bản hàng trăm lần và có đến 75 bản dịch với 20 ngôn ngữ trên thế giới.   

       Lời dẫn: Nguyễn Du là một trong 7 người Việt Nam được UNESCO vinh danh: Nguyễn Trãi,  Hồ Chí Minh, Nguyễn Du, Chu Văn An, Nguyễn Đình Chiểu, Hồ Xuân Hương, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác.

       Ông là niềm tự hào của Dân tộc Việt Nam, của Đảng bộ và nhân dân Hà Tĩnh. Di sản của Nguyễn Du là những giá trị văn hóa đặc sắc, xuyên thời đại, là động lực mạnh mẽ, khơi dậy mọi khát vọng, tiềm năng, trở thành sức mạnh cho các thế hệ người Hà Tĩnh hôm nay, mai sau, tiếp tục đổi mới, sáng tạo, vững bước vào thời kỳ mới, thời kỳ được định danh là Kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

                  Lời dẫn:    Một số thành tựu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Hà Tĩnh - quê hương Danh nhân văn hóa thế giới Đại thi hào Nguyễn Du trong thời gian qua, định hướng phát triển trong thời gian tới....

            Khí nhạc và Ca khúc:  Âm vang non nước quê nhà

Sáng tác:  Đỗ Hồng Quân  

Biểu diễn :    ……………………..

Biên đạo múa…………………………….

              Vũ đạo múa  trên tất cả các không gian biểu diễn  .

                                  Màn pháo hoa ./.

                

-------------------------------------------------------           


Bình luận