logo

Truyện ngắn

KỊch bản chương trình NT KN Đại Danh y Lê Hữu Trác

Một danh y tận hiến. Một nhà văn có tâm hồn giàu cảm giác, cảm xúc. Một nhà Nho - ẩn sỹ thanh cao có tấm lòng bao dung, trắc ẩn, ngổn ngang tâm sự trước thời thế và nhân tình…


PHẦN  II:

LỄ KỶ NIỆM

(Có Chương trình riêng)

Âm nhạc và Video Clip có kịch bản riêng

PHẦN III:

CHƯƠNG TRÌNH NGHỆ THUẬT

TRĂM NĂM NGÀN NĂM HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG

Chương I:  KHỞI NGUỒN

1/ LỜI RU

Lời dẫn - MC 1: Lê Hữu Trác sinh ngày 12 tháng 11 năm  Giáp Thìn (27-12 -1724) tại thôn Văn Xá, làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương, (nay là xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, Hưng Yên) trong một gia đình khoa mục quyền quý, cha, con, ông cháu đều đỗ Tiến sỹ và làm quan đại thần thời Lê Trung Hưng. Thân sinh ông là Lê Hữu Mưu đỗ Đệ tam giáp Tiến sỹ, làm Thị lang bộ Công, gia phong chức Ngự sử, tước Bá, ( và truy tặng Thượng thư). Mẹ ông là bà Bùi Thị Thưởng, con gái tướng công Bùi Diệm Đăng. Từ năm 26 tuổi đến lúc mất ông gắn bó với quê mẹ, thôn Bàu Thượng, xã Tĩnh Diệm, huyện Hương Sơn, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay là xã Quang Diệm, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh).

 (Sân khấu xuất hiện Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác: Trang phục của nhà Nho T.K XVIII; gương mặt hiển hiện sắc thái một trí thức thời quân chủ, chí khí giang hồ gặp thời tao loạn, quay lưng với công danh, phú quý về ẩn minh nơi thôn dã.  Một danh y tận hiến. Một nhà văn có tâm hồn giàu cảm giác, cảm xúc. Một nhà Nho - ẩn sỹ thanh cao có tấm lòng bao dung, trắc ẩn, ngổn ngang tâm sự trước thời thế và nhân tình… Sự hiển hiện Lê Hữu Trác kéo dài qua MC2 cho hết trường đoạn hoạt cảnh dân ca)

 Lời dẫn MC.2: Từ thời thai giáo Lê Hữu Trác đã được bao bọc trong tình yêu thương của gia đình với các âm hưởng sâu lắng của lản điệu chèo, trống quân, hát xẩm Hưng Yên và hát ru, ví giặm Xứ Nghệ đằm thắm, mượt mà.

Hoạt cảnh dân ca múa và hát trên nền nhạc và tiếng đàn bầu:

 - Điệu Hát Ru con Nghệ:

Công cha như núi ngất trời

Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông

Núi cao biển rộng mênh mông

Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi …

  Điệu hát Chèo Hưng Yên

 Từ trong tay mẹ bế bồng

 Tắm trong linh khí Thượng Hồng (*) quê hương

 Nặng lòng ân nghĩa bốn phương

 Chí trai giục giã lên đường lập thân.

 Lời dẫn - MC.1: Thập niên 80 của thế kỷ XVIII (1781) một thời kỳ rối ren nhất của lịch sử dân tộc, chiến tranh liên miên. Triều chính khủng hoảng, vua Lê, chúa Trịnh chèn ép lẫn nhau, rồi cát cứ  giao tranh Đàng Ngoài - Đàng Trong, dân tình đói khổ điêu linh, khắp nơi  khói lửa và binh đao, máu và nước mắt. 

Lời dẫn M.2. Lê Hữu Trác theo nghiệp binh, rồi làm Phó đô Ngự sử, Hữu Thị lang bộ Công, Lưu thủ Thanh Hoa. Tham tụng Phủ Liêu, Trấn thủ Thái Nguyên, Tể tưởng, Chánh phó đoàn đi sứ nhà Thanh … nhưng rồi ông sớm nhận ra sự thối nát của Triều chính,  sự vô nghĩa của chiến tranh, lại gặp khi cụ thân sinh Tiến sỹ Lê Hữu Mưu mất, ông buồn chán biện lý gia đình khó khăn, rủ sạch lợi danh về ở với mẹ ở Tĩnh Diệm, Hương Sơn, Hà Tĩnh.

Lê Hữu Trác tự thoại:

“Mười năm mài lưỡi kiếm

Mũi nhọn tỏa hào quang

Sát khí xông Ngưu Đẩu

Oai hùng động tuyết sơn

Vào Tần đã chẳng được

Về Hán cũng chưa màng

Biển Hồ trôi dạt mãi

Chí lớn thành cuồng ngông”.

Trích đoạn dân ca Xứ Nghệ

 Một thời đọc sách mài gươm

Một thời chinh chiến hào quang lẫy lừng

Bỗng đâu sóng nổi đầu ghềnh

Khăn tang trắng đất Thượng Hồng,  Văn giang

Thương Cha nước mắt chứa chan

Nhớ Mẹ hun hút đại ngàn sương giăng

  Xẩm:     - Thôi giã từ chốn phồn hoa, danh lợi

Thảnh thơi về với Minh Tự  núi xanh

Đã qua năm thác, bảy ghềnh

  Trăng chờ trên Ngàn Hống , gió chùng chình Lam Giang …

 Ví (vọng): Người ơi... Vì mây mà núi lên xa

Mây bồng bềnh trắng. núi nhòa nhòa xanh

Ngẩn ngơ hoa trắng sân đình

Lá rơi vàng một nỗi mình khúc nhôi.

Lê Hữu Trác tự thoại: “Ta vốn dòng nho gia, gặp thời tao loạn, đâu đấy toàn cảnh tượng chinh chiến mới thác tình đem mình ra chốn giang hồ, làm nhà dưới núi Hương Sơn nuôi mẹ. Cũng không ngờ rằng duyên ưa phận định làm cho nước mây gặp gỡ, gía trăng cầm thư một gánh, chén rượu cung đàn ràng buộc ngày ngày ngao du thơ phú, đêm đêm mệt mài đèn sách. Công danh đã coi như chẳng tưởng, xa lánh bụi trần thì phú quý cũng xem tựa phù vân, một mình rong ruỗi, chí  những muốn đem thân  ra ngoài sự vật, để mà học lấy cái lợi ích thân”.

2. THƯỢNG KINH KÝ SỰ:

Ca khúc: Hồn quê hội tụ

Nhạc: Vân Dung;   Lời: Lê Cảnh Nhạc

Biên đạo:………………Biểu diễn:…………………..

Lời dẫn - MC.1:  Lê Hữu Trác ở trong ngôi nhà gỗ lợp tranh tro dưới chân núi Minh Tự, ngày đêm làm thơ, đọc sách, ngao du sơn thủy.  Một thời gian sau ông lâm bệnh phải  ra núi Thành, Nghệ An nhờ Lương y Trần Độc cứu chữa. Trong thời gian dưỡng bệnh, ông mua các loại sách thuốc cổ kim , đông tây về đọc, nghiên cứu và làm một học trò thông minh, chăm chỉ của thầy Trần Độc và các lương y nổi tiếng đương thời.  

MC.2. Sau nhiều năm thiết tha đến vận mệnh con người, tận tụy, tâm huyết với nghề Y, Dược, Hải Thượng Lãn Ông đã hiểu rất sâu lý luận kinh điển: Nội kinh, Nam kinh, Thương hàn, Kim quỹ;  và một thực tế chữa bệnh phong phú.

Danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác lừng danh khắp vùng Hoan Châu ra cả kinh thành Thăng Long..

MC1.Tháng giêng năm Nhâm Dần niên hiệu Cảnh Hưng thứ 43 (năm 1782), Quan Thự trấn chỉ triệu Lê Hữu Trác lên kinh chữa bệnh cho Thái tử Trịnh Cán và chúa Trịnh Sâm. Suốt cuộc hành trình từ Hà Tĩnh ra Thăng Long, Lê Hữu Trác đã ghi chép tỉ mỷ những việc, những nhân vật, những danh thắng, những phong tục, tập quán…mắt thấy tai nghe, một cách trung thực và tài hoa, thể hiện rõ cái tôi ưu thời mẫn thế và tấm lòng cao thượng của Lê Hữu Trác. Trí uyên thâm, tâm  nồng hậu trước thiên nhiên, con người, cuộc đời, Ông đã làm nên trước tác Thượng kinh ký sự rất có giá trị trong văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối TK XVIII, nửa đầu TK XIX .   

Hoạt cảnh ca kịch: Buổi chia tay, đưa tiễn Lê Hữu Trác ra Kinh: (Lê Hữu Trác, Người sai nhân, bà Mẹ, 2 người anh một số bạn bè của Lê Hữu Trác những lương y ở Thành Nam, ở Thành Vinh  và đông đảo dân làng Bàu Thượng)

Người sai nhân:

- Bẩm cụ, Quan Thư trấn có chỉ ạ.

Lê Hữu Trác: - Từ bữa ta về quê lại nay, giấu mình giữa non xanh cây cỏ sao lại có chỉ truyền?  

Bà Mẹ và anh trai: Thời buổi ngổn ngang, lệnh truyền chỉ có mang điều dữ đến cho dân lành.

 Lương y Thành Nam.: - Người hiền ắt gặp thuốc tốt. Chắc nhà quan nào đấy bị hắt hơi, sổ mũi thôi.

Người sai nhân:

- Hãy nghe đọc ạ:

“Quan nội sai Bình phiên Trạch trung hầu vâng lời chỉ, truyền cho quan Thự trấn Nghệ An là Côn Lĩnh hầu phải tìm một người quê ở Liêu Xá, huyện Dương Hào con quan Thương Thư họ Lê tên là Lê Hữu Trác, tục gọi là ông Chiêu Bảy. Hiện nay ông ta ngụ cư ở quê mẹ, xã Tĩnh Diệm, huyện Hương Sơn

Tìm được người này phải sai lính ở Trấn hộ tống đưa ngay lên Kinh đợi mệnh. Nay chỉ truyền”

Lê Hữu Trác:

- Lên Kinh ?

Sai nhân:

- Dạ, là lên Kinh. Thấy Đông cung Vương thế tử mắc bệnh đã lâu nên Quan Chánh đường Hoàng Đình Bảo cử cụ vào chữa. Việc này không phải thường đâu. Có thêm thư của Quan Thự  trấn, xin đọc để cụ và mọi người cùng nghe:

“Một anh học trò nơi thôn xóm bỗng nhiên tiếng tăm động đến cửu trùng, tiền đồ rất có triển vọng, mừng khôn xiết kế.

Có vương lệnh thì phải đi gấp. Lên ngay hôm nay. Đến trấn Vĩnh Dinh đã có người của trấn ẩy sẵn sàng cùng lên đường”.

Đám đông: - Là chuyện tốt đẹp, chuyện mừng vui…. Chúc Thầy chân cứng đá mềm, một bước đi gặp hai điều may mắn.

Lê Hữu Trác: - Cảm ơn mọi người.

Lương y Thành Vinh Tưởng tri mà nên nhân duyên. Biết Cụ sắp lên Kinh, từ sáng sớm anh em bọn tôi vội lên thuyền ở bến đò Phù Thạch, ngược Ngàn Phố để được gặp.. Sau mãn học thuốc Trần Độc ở Nghệ, Cụ về quê hành nghề, thành người tế thế, nổi danh tài giỏi Y, Dược, tinh thông Thiên văn, Địa lý, lừng lẫy văn chương, thơ phú…Còn chúng tôi ẩn mình, gắng làm những việc có ích cho đời, mong giúp đỡ người giữa cõi nhân gian dâu bể…

Lê Hữu Trác: - Ở ẩn cứu được đạo, ra đời cứu được dân. Các Cụ đã ra đời là đã cứu dân vậy.  Đấy là tên tuổi, thưa các thầy.

Thầy thuốc: Cụ đã sớm đi con đường chinh đạo mà nên sự nghiệp. 

Lê Hữu Trác: (Trầm ngâm; như với riêng mình)

- Làng Bàu Thượng nơi tôi ở đây nhàn hạ tịch mịch, mây đầu non cao, trăng trên sông rộng, lòng lưu luyến không nỡ rời. Nơi đây, tôi đọc sách thuốc ngày đêm say đắm ý vị ngon lành, lấy việc làm thuôc hầu như của riêng mình trước trị trong nhà rồi ra cho đến mọi người, làng nước…”. Nơi đây, tôi tha hồ ngắm cảnh khói mây để tiêu khiển.hoặc ngồi ở đình Nghinh phong mà buông câu, hoặc ngồi ở lầu Tịch huyền gãy đàn, hay ngồi ở đình Tối quảng mà đọc sách, hoặc ngủ trước bàn cờ ở nhà Di chân. Tha hồ vui thú. Thường ngà ngà say mới về nhà.” Nay không biết bao giờ thì trở lại nơi này được.

Lương y Thành Nam:

- Cụ là người có tấm lòng nhân hậu, tài hoa hơn người, mắt nhìn thấu bốn cõi. Cụ ở đâu thì đấy là quê…

 Lê Hữu Trác (Với mọi người):

- Xưa, tôi xa Liêu Xá, Thượng Hồng lên Kinh, từng trải thác ghềnh, chua ngọt ở chốn phồn hoa đô hội, đánh mất bao thời gian của đời. Tôi từng xem công danh là vật bỏ, về núi Hương Sơn dựng lều nuôi mẹ, đọc sách, mong tiêu dao vui thú trong cái vườn đạo lý của Hoàng Đế, Kỳ Bá, lấy việc  giữ thân mình  cứu giúp người cho là đắc sách lắm. Nay không ngờ lại bị cái hư danh  làm lụy đến nông nỗi này.”

Thầy thuốc Thành Nam: Cái lẽ “xuấ”, “xử” của thầy khởi nguồn từ tình yêu thương con người, vì con người nhiều người hiểu, nhưng mấy người theo được. 

Lê Hữu Trác: Chuyến lên Kinh lần này, ta sẽ nâng niu, lưu giữ từng chút cảm xúc trước người, trước cảnh dọc đường đi. Ta còn nuôi tâm nguyện in được bộ sách Tâm lĩnh mà ta đã lao tâm khổ tứ về đạo làm thuốc hơn ba chục năm trời, không phải cho riêng ai mà cho đời.  

Người dân Tĩnh Diệm: Mong mỏi thầy thành công. Nào bà con anh em xa, gần xin nâng chén rượu nồng chú mừng thầy đi chân cứng đá mềm, một bước hai niềm vui…Mong Thầy sớm trở về với dân làng…

 (Cảnh tiễn đưa Lê Hữu Trác xuống bến đò)

 (Cảnh Lê hữu Trác và sai nhân trên đường đi)

    Khúc dân ca. 

“Trốn đời học thuốc nhì nhằng

Làm giàu chẳng biết, nghèo chăng cũng đành

Lâm tuyền hẹn ước ba sinh

Chiếu vua khôn chối, băng mình dặm xa

Loi thoi nửa gánh yên hà

Đầy rừng vược hú đưa ta lên đường

Nghĩ mình tiếng cả tài thường

Sơ cuồng đối với thánh hoàng sợ thay”

   

“Nghệ - Thanh phân giới từ đây

Đón đưa núi nọ, sông này gần xa

Nhấp nhô đá dựng giữa đèo

…Trời Nam mảnh biếc một chiều giăng ngang

Người ta nói chuyện về làng

Riêng mình còn phải dặm trường lên Kinh”.

        (Cảnh Thăng Long)

“Ba chục năm giang hồ phiêu bạt

Vâng chiếu trời vào đất Tràng An

Trung Châu văn vật y quan

Lâu đài đình quán, tột làn mây xanh”

 Vũ điệu múa diễn tả cảnh sang trọng nơi cung vua, phủ chúa.

       Hát Xẩm:

“Linh nghìn cửa vác đòng nghiêm nhặt

Cả trời Nam sang nhất là đây

Lầu từng gác vẽ tung mây

Rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào

Hoa cung thoảng ngạt ngào đưa tới

Vườn ngự nghe vẹt nói đôi phen

mùa cung cấm chưa quen

Khác gì Ngư phủ Đào Nguyên thủa nào”

Trích đoạn sân khấu chữa bệnh cho Trịnh Sâm:

Tại Cung Thập tự:

Quan Chánh đường: “Tuần nay Thánh Thượng ra cung Vọng Hà xem thủy quân chèo thuyền thì bị cảm gió. Đã năm sáu năm nay, người mắc một chứng tật, nguyên khí ngày mỗi hao mòn. Cụ phải chầu chực ở đây.”

Lê Hữu Trác (một mình): “Ta là kẻ quê mùa, thoắt cái được vào triều yết kiến thiên nhan, lòng không khỏi sợ hãi, thôi đành phó mặc mệnh trời”.

Quan Chánh đường: - Cụ vào xem mạch, thấy thế nào thì cứ tâu thực.

Lê Hữu Trác (Sau khỉ xem mạch cho Thánh thượng):

“- Thần cẩn án mạch, hai bên tả hữu bộ quan và bộ thốn đều to, nhanh và huyền, tả xích trầm, nhanh, hữu xích nhỏ và nhanh đè tay vào thấy nó yếu. Mình gầy da khô, nước tiểu vàng và đục, đại tiện không tiêu, bụng đầy, thỉnh thoảng ợ chua. Lại có cơn sốt, miệng khát, ho thất thanh. Thảy đều do tinh khô, huyết kiệt…”

 Quan Chánh đường: - Cụ kê đơn đi.

Lê hữu Trác:

“Tiểu thần xin trình: Dùng than bát vị gia giảm làm cao: thục địa, sơn thù, mẫu đơn, bạch linh, mạch môn, ngũ vị, chế phụ tử nhục quế. Đổ vào nồi đất nấu thành cao.

Điều với cao lộc nhung, cao câu kỷ...”

Quan Chánh đường:

“Thánh Mầu truyền cho cụ biết: Người thấy Thánh thượng “ngự chè” đã được thanh thái nên rất mừng. Vâng lời thánh thượng ban thưởng một cái “thái ngưu” và áo mát, áo ấm thuận khi vào chầu.

Từ nay, chỉ cho lão sư chầu thuốc, không được dùng một ly thuốc nào của ai nữa. Lão sư có nguyện vọng gì thì nói ta sẽ tâu lên Thánh thượng.”

Lê Hữu Trác:  Tuổi 60, nhận chỉ truyền, tôi chống gậy lên Kinh chữa bệnh cho Thái tử và Hoàng thượng, vừa ngót một năm trời. Còn xa mồ mả cha ông đã 30 năm nay, vì nghèo khó không làm sao về nhà thăm viếng.  Làm con như vậy thực không đảnh tâm, xin cụ lớn thương cho tôi được về  thăm viếng mồ mả tổ tiên, ông bà, cha mẹ và lễ ở các nhà thờ, các vị thần ở miếu làng và gặp gỡ bạn bè xưa cũ.   

Quan Chánh đường:

- Ta hiểu lòng cụ. Nhưng việc thuốc thang, có mệnh triệu vào thì sao?

- Lê Hữu Trác: Thượng Hồng, quê tôi cách Kinh đô có nửa ngày đường…

Quan Chánh đường: -Việc chầu chực thuốc thang Cụ biết đấy. Tôi cho Cụ 15 ngày cả đi lẫn về. 

Lê Hữu Trác:  Đa tạ quan Chánh đường. (Hoài niệm). 

       Khúc dân ca và màn múa hát:

“Lưu lạc giang hồ ba chục năm

Bằng nay sông Nhị lại lên thuyền

Nghìn dòng đất bằng  tuôn nước xuống

Tam Đảo trời xa tung mây lên

Thú mới tình xưa còn man mác/

Lòng quê nỗi khách bỗng liên miên”

“Này chùa dựng cạnh lùm cây

Này nơi dinh cũ đã đầy cỏ hoa”

Những nơi thuở trẻ đùa chơi

Càng trông thì lại càng khơi nỗi buồn…”

    Trích đoạn ca kịch dân ca: Lê Hữu Trác với 2 Bà sư già, một  trụ trì Chùa Yên Tử, một trụ trì chùa Văn Giang, tại ngôi nhà ngói dựng trên cái cầu bắc qua đầm làng Văn xá, Phủ Thượng Hồng, Hưng Yên. nơi dân làng gặp gỡ, giao lưu khi nông nhàn. 

Lời dẫn (Vọng): Thời trẻ nhà Lê Hữu Trác có dạm cô con gái con quan Thừa tư tham chánh ở Sơn Nam, đã làm lễ vấn danh và ăn hỏi. Nhưng rồi, ra khỏi quân đội, Lê Hữu Trác gặp tang gia, ông về quê  mẹ ở Hương Sơn, vô tình bỏ qua mối lương duyên với cô gái làng Huê Cầu. Nay Lê Hữu Trác lại thăm chốn xưa, tính ra đã gần chục năm rồi. Quan Thừa tư Tham chánh đã qua đời, người con gái nghĩ mình đã có người dạm hỏi tức là đã có chồng, vô duyên bị chồng bỏ, còn mặt mũi nào lấy chồng khác, đành mặc áo nâu sồng vào Chùa nương nhờ cửa Phật ...

Bà sư Chùa Văn Giang:

- Biết tin Cụ về làng, chúng tôi tìm đến trước thì vấn an sau thì trình cụ một việc nhà Phật.

Lê Hữu Trác: -Việc chi các vị cứ nói ạ.

Bà sư Chùa Huê Cầu: - Chùa Huê Cầu có đúc một quả chuông.. Công việc chưa xong. Chúng tôi đến đây để khuyến hóa cụ.

Lê Hữu Trác:

- Tôi là Lê Hữu Trác tránh loạn vào quê mẹ đất Hoan Châu. Chẳng may

có chiếu gọi lên Kinh. Gần hai chục năm nay mới trở lại chốn này. Ký ức vẫn thấp thoáng người xưa, cảnh cũ.

Bà Sư chùa Văn Giang:

- Đã là người xưa, cảnh cũ thì hoài niệm nhớ thương chỉ thêm tiếc nuối.

(Tự ngâm): Đời người chiếc bóng chim câu

Đừng nói câu hò hẹn mà thêm đau cõi lòng

Lê Hữu Trác tự ngâm:

“Lầm người, sự bởi vô tâm

Nhìn nhau, nay những luống thầm thở than

Một cười giọt lệ chứa chan

Mắt trông, xuân hết, hoa tàn thương thay”

       Bà sư:    

                    “Anh em kết nghĩa kiếp này

Kiếp sau cầm sắt bén dây họa là

Trót vì  người phụ lòng ta

Ôi thôi đành vậy biết là làm sao!”

Lê Hữu Trác (Một mình)::

      - Đành vậy  ư ? Không còn cách nào khác cứu vãn được nữa ư?

Bà Sư: 

        Dẫu sao thì sự đã rồi

Nhắc chỉ để dạ rối bời buồn thương

Đã không cùng được một đường

Vầng trăng đã sẻ, đêm trường chia phôi…

Lê Hữu Trác: (Tự than) : Mình thu xếp công việc không chu đáo, có trước chẳng có sau, khiến người ta ôm hận. Mình thực là người bạc hạnh. Nay chỉ còn cách nuôi dưỡng  Bà cho trọn tuổi trời, để mong chuộc lại tại tội ngày xưa. Ví bằng bà bằng lòng về Hoan Châu với ta, thì trong khu vườn thanh u, tịch mịch, có một ngôi chùa do anh ta dựng, có thể  cung phụng đèn nhang. Như thế một phần ta mong báo đáp cái tiết hạnh cao quý của bà, một phần để chuộc cái tội của ta.

Bà sư chùa Văn Giang:

-Tôi biết ông đang nghĩ gì. Tôi cảm ơn ông có lòng tốt. Tôi chưa được hưởng ân huệ của người nhưng tấm lòng của người đã hiểu cho như thế, cũng đủ an ủi cái cảnh lênh đênh cô độc của tôi rồi.

Múa theo lời dân ca:

"Từ khi xiêm áo hết thời

Khói trên ngọn cỏ ngậm ngùi bờ sông

Trăm năm bao chuyện đau lòng

Tràng An ngày trước nay không còn gì…”(*)

Lê Hữu Trác:

Tự thán: Vậy là người ấy quay lưng đi không còn mong gặp lại. Người ấy đi mãi… Buồn chia ly chưa nguôi, thêm buồn công việc. Ta nhớ ta đã viết trong tờ khải trình Quan Chánh đường hôm nay là ngày hẹn trở lại Kinh.

Hoạt cảnh Lê Hữu Trác trở lại Kinh:

Người dịch mục của Quan Chánh đường:

- Có Thánh chỉ triệu cụ về Kinh. Việc này không thể trì hoãn được.

Lê Hữu Trác: (Tự than): - Cái phận mình nó thế này mãi sao ?

Người dịch mục:

-Ta đã đến Kinh. Xin thầy về thẳng dinh quan Chánh đường cho đúng hẹn.

(Tại Dinh quan Chánh đường. Quan Chánh đường và Lê Hữu Trác)

Quan Chánh đường: Cụ là người trung, tín. Ta thì phải nghiêm theo khải trình. Nay Thánh Thượng đã lui cơn sốt âm nhiệt. Cụ đi đêm sương gió nhiều hãy về nhà trọ nghỉ ngơi?

Lê Hữu Trác:  Dạ, nếu bệnh tình Thánh Thượng đã được vậy thì mừng quá. Tôi xin mở nỗi lòng mình với Quan Chánh đường.  Tôi vốn có chí tế thế từ thuở nhỏ mà không gặp thời  phải về nương náu chốn sơn cùng, thủy tận cho được dưỡng nhàn. Tuổi 60, nhận chỉ truyền, tôi chống gậy lên Kinh, tính đến nay đủ ngót một năm trời. Tôi đã dốc hết tài hèn, sức mọn chữa lành bệnh cho Thái tử và Hoàng thượng, nay xin Ngài rủ lòng thương cho tôi được trở về quê với mẹ già.

Quan Chánh đường:

- Ta hiểu lòng cụ. Ta sẽ trình và lựa lời tâu Thánh thượng.  Mấy bữa nay Ngài đã thanh thái, vui vẻ, mong muốn về quê của cụ chắc sẽ đạt.

Lê Hữu Trác:  Đa tạ quan Chánh đường.

Tiếng vọng: Ngoảnh lưng lại chốn kinh thành

Nôn nao thấp thoáng mái tranh mẹ già

Bến đò, sông nước, cây đa

Làng trên, xóm dưới thiết tha đợi chờ

Nghề y tâm nguyện, ước mơ

 Cứu nhân, độ thế bây giờ là đây…

………………………………………………………………..                 

(*)Giang đình tự cảm- Nguyễn Du)

   3/ HỒI HƯƠNG

Ca khúc: Mạch nguồn Phố Dương

Sáng tác: Quốc Đính

Biên đạo:………….Biểu diễn:……………… 

Hoạt cảnh ca kịch:  (Người dân làng Tĩnh Diệm tu tập nơi bến sông Ngàn Phố chờ đón Hải Thượng Lãn Ông)

 Một người dân:

- Kinh thành mạn ngoài Ngàn Hống, xa như rứa Ngài đi ngựa, hay xe ?

Người dân:

- Đoạn lính cáng võng, đoạn thì ngựa, đoạn thì thuyền hoặc bè. 

Người dân:

- Thuyền vô Cửa Hội, chờ triều cường rồi mới ngược …

Người dân:

- Kìa có thuyền đang lên kia kìa

Nhiều người:

- Đúng là thuyền của thầy rồi. Từ ni có Thầy Lê Hữu Trác, dân ta  khỏi lo, ốm đau, bệnh tật nữa.

- Kìa Thuyền đưa Người vô bến kìa…

- Cập bến…Cập bến…cập bến

Một khúc dân ca:

 “Lên đường từ giã long lâu

Gươm đàn nửa gánh ra mau đô thành

Ngựa quen đường cũ về nhanh

Quay thuyền có lúc lênh đênh giữa dòng

Mây qua đường để bớt nồng

Núi non mở mặt như lòng vì ai “

Núi Minh Tự thông xanh len đá trắng

Ngàn Phố trôi một dải nặng lòng

Thuyền qua bảy thác, chín ghềnh

Quê hương - bến đậu an lành… Người ơi…

Dân làng:

 - Người về với cây cỏ, ruộng nương với dân làng Tĩnh Diệm 

Lê Hữu Trác (độc thoại): Ôi, công danh ta đã coi như chẳng tưởng. Xa lánh bụi trần thì phú quý cũng xem tựa phù vân, một mình rong ruỗi, chí những đem thân ra ngoài sự vật, để mà học lấy cái lợi ích thân...Trở về quê với mẹ già, anh em, láng giềng, chòm xóm bụng ta mừng khôn xiết kể. Ta lại được đem thân già này phụng sự nhân quần.

Chương II - Y TÔNG TÂM LĨNH

1. ĐẠO LÀM THUỐC

Lời dẫn - MC1:

Đại danh y Lê Hữu Trác học vấn uyên thâm, am tuờng thiên văn địa lý, hiểu sâu sắc thời vận, không ngại gian khó, cần cù; độc lập trong sáng tạo, trong nghiên cứu y học. Ông đã phát hiện 300 vị thuốc nam, thu thập tổng hợp 2.854 phuơng thuốc hay các vị tiền bối lưu truyền trong dân gian. Suốt 40 năm trời lao động, ông đã tổng kết tinh hoa của Trng y và y học dân tộc cổ truyên, biên soạn làm nên Bộ “ Hải thượng y tông tâm lĩnh” đồ sộ gồm 28 tập, 66 quyển. Đây là một công trình kế thừa truớc tác y học của nhiều thế hệ, đuợc coi là bộ “Bách khoa toàn thư” y học của thế kỷ XVIII. Trong đó ông đã xây dựng thành hệ thống toàn bộ: Lý, Pháp, Phương, Dược của nền y học Việt Nam. Trước tác vĩ đại của ông gồm: Hải Thuợng Y tông tâm lĩnh, Vệ sinh quyết yếu; Y hải cầu nguyện; Hải giản trân nhu, Bách gia trân tàng; Tâm đắc thần phương; …

Lời dẫn - MC2:

Những trước tác mà Đại danh y để lại chính là bộ Giáo khoa kinh điển, mẩu mực, đánh dấu một bước tiển mới của sự nghiệp y học cổ truyền Việt Nam và đặc biệt góp phần đào tạo, bồi duỡng y đức, y đạo, y thuật cho các thế hệ thầy thuốc về sau.

Trích đoạn sân khấu: Lớp học nghề Y, Dược tại Nghinh Phong.

(Lớp học tu tập hơn hai chục môn sinh và ba danh y. Trên sân khấu bố trí bày đặt nhiều dụng cụ bào chế thuốc, Nhiều bì tải đựng lá cây làm huốc, một tủ đựng sách vở, tài liệu về nghề y, dược…)

Lời Hải Thượng Lãn ông (Vọng trên nền nhạc, giữa quang cảnh môn sinh bận rộn sao tẩm thuốc, bốc thuốc):

“Đạo làm thuốc là một nhân thuật chuyên bảo vệ tính mạng con người, phải lo cái lo của người, vui cái vui của người, chỉ lấy việc cứu sống mạng người làm nhiệm vụ của mình, không nên cầu lợi kể công.”

Danh y 1: -Tôi xem mục lục bộ Y tông tâm lĩnh của Thầy, thật lòng vô cùng cảm phục .

Danh y 2: Thấy đủ lý, pháp, phương, dược và biện chứng luận trị về nội khoa, phụ khoa, sản khoa, nhi khoa, đậu sởi, nhãn khoa, thương khoa, cấp cứu…

Danh y 3. Còn tập thơ Y lý thâu nhàn?

Hải Thượng Lãn Ông: Trong Y lý thâu nhàn của tôi có một thiên Y huấn cách ngôn nói về đạo đức  của người thầy thuốc và một thiên Y nghiệp thần chương…chỉ là những ngâm vịnh ngẫu hứng trong lúc làm nghề các thầy ạ.

Tự ngâm: “Học y hai mấy năm rồi

Đông qua hè lại chẳng rời sách hay

Những e họa phúc trong tay

Vuông tròn thẹn nỗi vần xoay kém tài

Thuốc thang may có giúp đời

Dám đâu nghĩ chuyện mong người trả ơn

Công danh là bệnh khó khăn

Sửa mình đạo đức tinh thần  mạnh hơn”

Một môn sinh: - Thầy là bậc tài cao, đức dày, cái tài làm thuốc của Hiên Viên, Kỳ Bá, cái tài làm thơ của Đỗ Phủ, Lý Bạch, có cái chí nhàn đật, cái tình phong lưu của bậc cao sỹ. Xin nhận của các học trò những cái lạy kính trọng chân thành.

         (Tất cả môn sinh cúi lạy.)

Lê Hữu Trác: Có chín điều là khuôn phép, nguyên tắc và những điều cần tránh của người làm nghề chữa bệnh cho người..

Tất cả: Dạ, chúng con chờ nghe lời Thầy

Hát giặm xẩm: Suốt cuộc đời làm thuốc

Học kim, cổ, đông, tây

Lĩnh hội lời các thầy

Từng ghi lòng tạc dạ

Chữ Tâm là tất cả

Chữ Đức ấy cội nguồn

Mở lòng với vui, buồn

Khóc, cười cùng người bệnh

Dẫu có lâm lận đận

Giữ phẩm tiết nghề Y

Đừng đòi hỏi được gì

Hãy chu toàn minh bạch

Chu toàn và minh bạch

  Lê Hữu Trác: (với môn sinh): - Làm nghề này để chữa lấy mình, để chữa lấy nhà, chứ không phải để cầu vinh cầu  lợi. Ta hết sức nghiên cứu ròng rã , trải bao sương nắng  từ năm 30 tuổi đến năm 40 tuổi, mới gọi là biết làm thuốc, từ năm 40 đến năm 50, mới bớt được sự sai lầm. Suốt đời ta  sống vì sinh mệnh của người anh em. Các con hãy giữ trong tâm khảm 8 chữ: Nhân, Minh, Đức, Trí, Lượng, Thành, Khiêm, Cẩn; và hãy tránh  tám chữ: Lười, Keo, Dối, Dốt, Ác, Hẹp hòi, Thất đức 

Môn sinh: (Đồng thanh):

Lời thầy như ánh nhật dương

Soi sáng đường con lập nghiệp

Lê Hữu Trác (tự thoại):

“Công danh sự nghiệp trôi như nước

Nhân nghĩa trong lòng chẳng đổi phương”

 Múa đương đại khắc họa tình cảm của đông đảo người dân đối với ân nhân Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu trác.

  2. THÊNH THANG MỘT CÁNH DIỀU

Ca khúc: Ba trăm năm rạng tên Người

Nhạc: Trịnh Ngọc Châu;          Lời: Phạm Quang Ái

Biên đạo:………………………Biểu diễn:………….

Lời dẫn MC: Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác qua đời vào ngày 25 tháng Giêng năm Tân Hợi (1791 - nhằm ngày 18 tháng 3 năm 1791) tại Bầu Thượng, (nay là xã Sơn Quang, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh).               

Trích đoạn sân khấu: Phút lâm chung của Lê Hữu Trác trên nền nhạc buồn và tiếng sáo diều:

Người nhà: Thầy cần gì nữa không ạ?

Lê Hữu Trác: - Nửa đời ta chữa bệnh cho thiên hạ, cứu sống bao người, từ bậc đế vương giàu sang đến dân thường khốn khó. Vậy là thỏa lòng cho những tháng ngày ta sống trên cõi tạm rồi.. Ngẫm thấy ta cứu người nhưng không cứu được ta mới biết cái số mệnh trời ban nghiêm cẩn và rõ rành thế nào.

Môn sinh: Các trò đã lên rừng Trường Sơn, xuống sông Ngàn phố lên Giăng Màn, xuôi Ngàn Hống tìm thuốc theo bài Nội kinh chính yếu của  thầy…nhưng…Chúng con thật có tội…

Lê Hữu Trác: Không! Các con đã hết lòng với nghề y, với thầy…Thầy đã nói là cái mệnh của thầy trời ban tặng là vậy…

(Tự thán):Thời trẻ ta nuôi gió cánh diều trên trời xanh Cẩm Giàng, Hưng Yên, giữa mây trắng Tràng An, Thăng Long, rồi ta về cố quận, lên núi, xuống sông, làm thơ và làm thuốc, trái tim đập nhịp nhân quần. Nay ta già lão, gió về nuôi ta bằng tiếng sáo và cánh diều… 

Nào đỡ ta dậy để ta thấy cánh diều và nghe tiếng sáo …

Người nhà và môn sinh: (Dìu Lê Hữu Trác)  Thầy ơi…Trời bỗng ngưng gió ạ. Diều đang chao nghiêng…

Lê Hữu Trác: Đấy là ý trời, là cốt mệnh của ta. Các người hãy lắng nghe ta dặn: Diều rơi xuống đâu, thì đấy là chỗ ta nằm. 

Người nhà: Thấp rồi, thấp rồi…Thưa thầy, diều hạ cánh nơi sườn Đông Nam núi Minh Tự ạ.

Lê Hữu Trác: Tốt lắm. Tốt lắm! Núi …Minh …Tự …

Người nhà và môn sinh: - Thầy… Thầy ơi…

(Sân khấu hiển hiện Lê Hữu Trác. Vẫn bộ trang phục của người làm thuốc vào những năm cuối Thế kỷ XVIII, với gương mặt bình thản và ánh mắt suy tư có gốc rễ trong hồn cốt quê hương; sự hiển hiện ấy kéo dài cho đến hết trường đoạn tiếng vọng trước mộ Lê Hữu Trác.) 

 Tiếng vọng trước Lăng mộ Lê Hữu Trác:

Minh Tự  sương giăng, bỗng sáng tỏ đôi vầng nhật nguyệt;

Trời cao gió lộng, cánh diều chao như có, như không,

Ba trăm năm thổn thức cõi lòng

Bao thế hệ nhân quần về  hạnh ngộ. 

Nhớ người xưa

Y thuật nức tiếng gần xa

Văn chương nổi danh bốn cõi

Đúng lúc chiếu gọi hiền tài

Đang khi vua cần thần tử

Phận mỏng đành phen biệt xứ, lên Kinh

Thân đơn chịu nỗi buộc ràng xuất, xử

Gặp thời tao loạn, bốn bề bão xoáy nước sôi

Bể dâu trồi trụt khúc nôi, năm tháng ướt đầm lệ khổ.

Công danh chẳng tưởng, phú quý  phù vân gió thổi

Về lại cố hương, y tâm sáng ngả đường chính đạo

Học xa, học gần, kim cổ, đông tây thấu cảm  

Rỏ máu làm nên Y tông  tâm lĩnh, phụng sự con người...

Tiếng tăm vang bốn cõi, lay động cả dất trời

 Ôi,

“Rạng khoa thuốc phương Đông, để tên tuổi trong quốc sử

Lưu ngành thuốc nước Nam, cứu độ cuộc sống dân lành”

     Ví (Vọng): Thương người nước mắt lặng rơi

             Tiếng sáo tắt giữa một trời sương giăng…

Khúc Thơ và dàn múa, hát.

(Những ngọn nến. Người lớn, thiếu nhi ; số đông)

Ru hời ngọn cỏ mãi xanh

Sông dài sóng vỗ lênh đênh phận người

Cỏ xanh là cỏ xanh ơi

Khóc chi để nỗi một trời mưa rơi

Ru hời, ru hỡi, ru hời

Khóc chi để nỗi một trời mưa rơi…

Sông xanh và núi xanh

Trời cao và đất rộng

Cánh diều trong gió lộng

Đưa Người về bình yên

Sông xanh và trời xanh

Ru người vào cõi mộng

Ru trăm năm ngàn năm

Trăm năm vào ngàn năm...

            

Chương 3: HÀ TĨNH - NGÀY MỚI

Ca khúc:

Biên đạo……………………….

Biểu diễn:                     Biên đạo:

M.C1: Cuối những năm 90, để tưởng nhớ, tri ân Đại Danh y Lê Hữu Trác, Tình Hà Tĩnh đã giao Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch lập và triển khai dự án tu bổ, tôn tạo Khu Di tích Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác.

Ngày Ngày 9-01-1990 , Bộ VH,TT &DL ra Quyết định số 34 /VH-QĐ công nhận Khu di tích Hải Thượng Lãn Ông là di tích Lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Khu Di tích gồm các hạng mục: Khu Lưu niệm tại làng Quang Diệm, huyện Hương Sơn, Khu mộ và Khu Tượng đài trên núi Minh Tự, xã Sơn Trung, huyện Hương Sơn. Gắn với Khu Di tích đang trở thành một địa chỉ văn hóa tâm linh và Du lịch là Lễ hội Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác được Bộ VH,TT&DL ban hành quyết định công nhận là Lễ hội cấp Quốc gia vào cuối năm 2017 - Một lễ hội có quy mô lớn với nội dung phong phú, sức lan tỏa các giá trị di sản Hải Thượng Lãn Ông mạnh mẽ và rộng khắp. 

MC.2:  Lê Hữu Trác là một Đại danh y, một nhà khoa học, một nhà văn hóa xuất sắc trong lịch sử Việt Nam thế kỷ XVIII. Những giá trị di sản của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác là xuyên thời đại. Với những đóng góp to lớn của Ông, tại Kỳ họp Đại hội đồng các quốc gia thành viên UNESCO lần thứ 42 diễn ra tại thủ đô París, Pháp, UNESCO đã thông qua Nghị quyết về danh sách 53 danh nhân văn hóa và sự kiện lịch sử niên khóa 2023 - 2024  được tổ chức này vinh danh và kỷ niệm trong đó có Danh nhân Việt Nam Hải thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác. Văn bản ghi rõ: “Kỷ niêm 300 năm ngày sinh Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, bác sĩ (1724 -2024)”

Thời gian vừa qua, tỉnh Hà Tĩnh đã tích cực chỉ đạo các Sở, ban, ngành liên quan và hệ thống chính trị tập trung thực hiện Nghị quyết của UNESCO và Kế hoạch số 24/KH-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc Kỷ niệm 300 năm ngày sinh Hải Thượng Lãn Ông  Lê Hữu Trác..

Vi deo clip:

Hình ảnh Lễ hội Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác

Nhân dân tế lễ trước nhà thờ Lê Hữu Trác

Hàng trăm người kính cẩn, ngưỡng mộ trước Tượng đài Lê Hữu Trác

MC1: Phát huy truyền thống văn hóa cách mạng của quê hương núi Hồng Sông La, để đền đáp công ơn to lớn của các bậc tiền nhân, Đảng bộ và nhân dân Hà Tĩnh đồng thuận, trên, dưới một lòng, suốt những năm qua đã nỗ lực phân đấu lao động và sáng tạo trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng, đưa lại nhiều kết quả nổi bật:  


Bình luận