1. Nghĩ về sự thành đạt hay truân chuyên của một con người, ta thường soi dọi họ tộc, gia đình, và cái “nết đât” nơi người ấy sinh thành. Tôi sinh ra trong một gia đình không có truyền thống văn chương, nghệ thuật ở một làng quê nghèo bao thời chẳng có ai được ghi tên trong lịch sử đất nước; vậy mà không biết do số mệnh, hay nhờ những trải nghiệm qua những năm tháng thăng, trầm mà trở thành nhà văn. Xưa kia, những đận gian nan, cực khổ, tôi thường nghĩ cuộc đời tôi không ra khỏi những xác tín trong 12 cái ô vuông của lá số Tử vi lập nên từ ngày sinh, tháng đẻ.
Theo trí nhớ của mẹ thì tôi sinh sau Tết Nguyên đán mươi ngày, cái Tết mà Thầy (anh chị em tôi gọi cha là Thầy) thôi chức Chủ tịch Ủy ban Hành chánh kháng chiến xã để làm Hội trưởng Liên Việt. Sự ấy là năm 1949. Và “Sau Tết mấy ngày” thì lấy ngày chẵn mồng 10. Rồi ngày ngày 10 tháng 1 năm 1949 (Kỷ Sửu) thành ngày sinh của tôi, nó được ghi trong mọi thứ giấy tờ từ nhỏ cho đến tận bây giờ. Tử vi chỉ người tuổi Kỷ Sửu, “cầm tinh con trâu” mang mệnh hỏa, đa mang và đời nhiều gian truân, cực khổ, phải nỗ lực vượt bậc mới thành công. Ngẫm những nét tính cách cùng cuộc đời ghềnh thác của mình thì thấy ra tôi sinh năm Kỷ Sửu là đúng lắm. Mẹ còn bảo, mẹ đẻ rơi tôi trên lối vào nhà ngang rải đầy rơm toóc và cỏ khô dành làm thức ăn cho trâu, bò. Vậy ra thời kỳ “thai giáo”, tôi đã “hít thở” không khí làng mạc, “cảm” mùi vị của đất đai, rơm toóc đồng quê. Dường như đó là một linh ứng cho cuộc đời tôi? Tuổi trẻ buồn khổ, phẫn chí, khao khát ra khỏi lũy tre làng, nhưng rồi cả đời không thoát khỏi cảnh quan làng, khí vị, phong vị làng và những ám ảnh thân phận người dân làng.
Làng Đại Bản, nơi tôi sinh, gồm ba xóm: Xóm Chợ, xóm Làng, xóm Dưng. Nhà cha mẹ tôi ở Xóm Làng. Xóm Làng có gần trăm nóc nhà thấp, nhỏ với những khoảnh vườn đủ hình dạng lọt thỏm giữa tre pheo. Tre nhà này kề sát với tre nhà khác thành thành, thành lũy bao quanh làng.
Phia trước làng, phía Đông Nam, là một cánh đồng rộng, dân làng gọi Đồng Cựa. Con sông Sông Nhe uốn hình cánh cung ôm chặt Đồng Cựa và làng. Sau làng là bãi màu ngô, lạc, khoai, sắn, qua bãi màu là Đồng Sau trải rộng về phía Bắc, rồi bị chắn bởi dãy núi Sạc Sơn còn có tên Thốc Sơn, núi Cài.
… Nhà tôi ở giữa làng, ba láng giềng vây quanh chỉ có một hộ cùng họ Phạm Đình còn thì họ Phan, họ Nguyễn. Gia phả họ Phạm Đình chúng tôi bị đốt trong cải cách ruộng đất. Theo chú Phạm Đình Trát, người nhiều tuổi nhất của dòng họ, có biết chữ Hán thì ông Tổ họ Phạm tên Phạm Nhưng, từ phương Bắc phiêu bạt vào đất Đại Bản cùng thời ông Nguyễn Hoàng vượt Hoàng Sơn vào Nam. Mấy thế hệ cha truyền, con nối làm ruộng và đi thuyền buôn trên sông nước, đến đời ông nội tôi, Phạm Đề có cái chức Lý trưởng cuối thời nhà Nguyễn, rồi đời cha tôi, Phạm Tín làm chức Chánh Tổng; đấy là hai chức tước cao nhất của dòng họ.
Từ nhà tôi theo đường làng đi về phía Tây, gặp một cây đa cổ thụ gốc hai người ôm không xuể trước lối rẽ vào đền Thánh Mẫu. Đền uy nghi ba tòa Hạ điện, Trung điện, Thượng Điện nằm quay lưng vào một vùng cây cối rậm rịt như rừng. Một lạch nước thường là màu đen chảy phía Tây đền đổ nước xuống sông Nhe. Dân làng bảo lạch nước ấy là chốn trú ngụ của “ Tam xà” canh giữ đền. Bao đời, đền là cõi linh thiêng qua những chuyện kể hư hư, thực thực.
Từ thuở nào, dân làng tôi không gọi đền Thánh Mẫu mà gọi đền Đức Mẹ. Trẻ con trong làng vào tuổi thôi nôi thì gia đình bồng ra đền làm lễ “Bán cho Đức Mẹ”, để Mẹ phù trợ, độ trì tai qua, nạn khỏi, mau ăn, chóng lớn. Thế nên những đứa trẻ trong làng không gọi mẹ là mẹ mà gọi mẹ bằng chị, mự, dì…Là con của Mẹ nhưng thủa đi chăn trâu, chăn bò bọn trẻ chúng tôi chọn đền Đức Mẹ làm nơi đánh trận giả, chốn trốn tìm, leo trèo lên cả đầu rồng trên mái Thượng điện. Lớn lên chút nữa thì tôi biết sợ. Nỗi sợ mơ hồ vương vất trong khói hương, trong truyện kể của người già trong làng.
Ngoài đền Thánh Mẫu làng tôi còn cái miếu Phát Lát nằm trên một gò đất hình lưng rùa mọc đầy cây xấu hổ. Ngày rằm, mồng một hàng tháng miếu nghi ngút khói hương. Trước miếu có cái giếng đất sâu gần một con sào, nước trong vắt mùa nắng, đục nhờ mùa mưa, bờ giếng cỏ mật trải thảm. Thảm cỏ mật ban ngày làm nơi nghỉ chân cho người ở đồng ruộng về, ban đêm thành chỗ tụ hội hát hò, có cả tỏ tình của thanh niên trong làng, ngoài xã. Dân làng tôi uống nước giếng ấy mà lớn lên, mà ra Bắc vào Nam, lên ngàn, xuống bể.
Ngoài Đền Thánh Mẫu và Miếu Phát Lát, làng tôi không có đền Thành Hoàng. Mẹ tôi bảo, ai lập nên làng, người ấy là Thành hoàng làng; ai có công đánh giặc được vua ban sắc phong là Thành Hoàng. Làng Đại Bản chắc cũng có, nhưng đã bỏ qua đi. .
2.
Mẹ tôi quê ở làng Trường Lưu. Xưa kia, làng Tràng Lưu lọt thỏm giữa các dãy rú Chè (Trà Sơn), rú Bụt (Bột Sơn), rú Cài (Sạt nhạc, Thốc Sơn), như một cái lòng chảo, mùa mưa nước ngập thành hồ. Về sau hồ bồi lấp, chỉ còn một con ngòi nhỏ chảy vào sông Nhe có tên Phúc Giang. Bên sông có mấy chụm dân cư thưa thớt. Kẻ Vạc, Kẻ Tràng…đầu thế kỷ XV dời lên vùng đất cao trên dãy Phượng Lĩnh gọi là Tràng Lưu. Tràng Lưu nằm phía Tây rú Cài (tức Thốc Sơn hay Sạc Nhạc). Từ cuối Lê đầu Nguyễn –Thế kỷ XIII đến giữa thế kỷ XIX, Tràng Lưu nổi tiếng là đất văn vật xứ Nghệ. Ruộng đất nhiều và tốt nên đời sống nông thôn không đến nỗi khó khăn như các làng khác. Ngoài nghề nông, một số người còn làm thợ, chủ yếu là thợ mộc. Nhưng nghề thủ công chính ở đây là nghề bông vải. Đàn bà con gái ít phải lo việc đồng áng, thường ở nhà kéo sợi, dệt vải…
Có lần nào đó, lâu lắm rồi, mẹ tôi kể, vùng Nghệ Tĩnh khi sợi tơ chưa nhập, nghề trồng dâu nuôi tằm còn phát triển, làng Tràng Lưu có nghề kẹo vải, còn gọi là phường vải. Nghề này dành riêng cho đàn bà, con gái, thường là làm vào ban đêm dưới bóng trăng thanh. Các cô vừa làm vừa hát. Con trai, phần nhiều là nho sỹ, công tử, công tôn xa, gần đến nghe và hát đối đáp. Vào thời Lê Mạt, Nguyễn Du vượt Truông Hống, Đò Cài sang Tràng Lưu đàm đạo văn chương với nho sỹ họ Nguyễn Huy và tham gia hát ví, rồi dang díu với các cô phường vải, thề thốt cùng o Uy, o Sạ.
…Tôi hình dung thời trai trẻ, những đêm trăng sáng, cha tôi đi bộ lên làng Tràng Lưu cách nhà ba cây số để nghe hát Phường vải. Một đêm như thế, cha tôi đã gặp mẹ tôi trong đám thanh niên “chầu rìa”. Rồi sợi dây tơ hồng đã buộc vào cổ tay hai người. Sau đó, ông nội tôi đã đích thân lên làng Tràng Lưu gặp ông ngoại để thấu hiểu nhau.
Anh Quang kể lại, một lần cha tôi cho anh ngồi trên lưng ngựa đến chơi nhà ông ngoại. Nhà ông ngoại ở đầu làng Tràng Lưu, lối ngõ sỏi đỏ, chạy giữa những cây thị, cây duối đan cành lá vào nhau. Qua một cái sân gạch rộng, bước lên ba bậc tam cấp là vào phòng khách. Phòng khách đặt mỗi tủ chè và bộ bàn ghế gỗ màu đen bóng. Trên tủ chè treo bức hoành phi chạm trổ cầu kỳ khắc ba chữ Hán “ Thái Nhạc Cao” của bốn ông con rể mừng thọ bố vợ lên tuổi 60. Ông rễ đầu tên Nguyễn Công Lô người làng Thường Nga, Ông rễ thứ là cha tôi, ông rễ thứ ba tên Võ Văn Khang và ông rễ thứ tư là Nguyễn Huy Bút cùng ở làng Tràng Lưu. Gian bên trái là bàn thờ gia tiên có treo một hoành phi khắc ba chữ: “Tử Tôn Tài”. Ông ngoại dáng người cao to, gương mặt hồn hậu, râu tóc bạc phơ tiếp cha tôi nơi bộ bàn ghế ấy. Ông tên là Trần Văn Tường nhưng bà con trong làng Tràng Lưu gọi ông là Thầy giáo Tường vì ông vừa làm nghề bốc thuốc bắc vừa dạy học. Ông từng theo học chữ Nho vào đến Tam trường nhưng không đỗ đạt, ở nhà dạy học và làm lương y cắt thuốc Bắc. Bảy người con, con trai trưởng Trần Văn Thụy, đậu Thành Chung, làm Tham biện công chính, thời Việt Nam dân chủ cộng hòa làm Công trình sư Tổng cục đường sắt. Người thứ hai là Trần Văn Trân thường gọi Tú Trân, trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, Tú Trân bỏ nhà đi rồi mất tích. Năm người còn lại hoặc không được học như mẹ tôi, hoặc không bén ngưỡng Diplome như cậu út Trần văn Ly. Sự ấy là hiếm ở cái làng Tràng Lưu nổi tiếng về sự học.
Làng Đại Bản không được sầm uất, có “bát cảnh” như làng Tràng Lưu. Nhưng về gia đình cha tôi và gia đình mẹ tôi thì “môn đăng hộ đối”. Khi cha tôi gặp mẹ tôi, ông nội Phạm Đề của tôi đã là Lý trưởng có vai vế trong Tổng Lai Thạch. Nhà ông không tòa ngang, dãy dọc nhưng cũng nổi tiếng một vùng về giàu người, giàu ruộng.
Trong ký ức tôi, cơ ngơi của gia đình tôi là 3 ngôi nhà nằm hình chữ môn. Ngôi nhà giữa 5 gian, nghe kể làm từ ba cây dổi chặt hạ ở rừng Hương Sơn, giáp Lào, ngoảnh mặt ra hồ nước trồng hoa sen. Gian giữa kê bàn thờ gia tiên, sập gụ, tủ chè, một bộ tràng kỷ gỗ mun đen nhức, là chỗ tiếp khách của cha tôi, gian phía Tây, nơi cha tôi nghỉ ngơi, 3 gian phía Đông nơi ngủ của mẹ và những người trong gia đình. Bên phải nhà giữa là nhà ngang 3 gian hai hồi bằng gỗ lim, cột, xà lém đém màu than đen, dấu vết của trận cháy “năm Xô viết”, 1930. Mọi người kể cả người làm công theo ngày, sinh hoạt, ăn uống nơi đây. Cha tôi và anh Quang thì ăn ở nhà giữa, trên bộ tràng kỷ. Bên trái có một ngôi nhà nhỏ, thấp kéo dài hết chiều ngang sân để chứa lúa tươi và dụng cụ như nống nia, cuốc, thuổng, hòm quạt lúa, có tên gọi nhà Quạt. Ngoài nhà giữa lát gạch hoa, cái sân rộng lát gạch đất, còn thì đều nền đất nện chằng chịt đường nứt như mạng nhện. Nhà ngang nối với nhà giữa bởi một nhà cầu xây bằng gạch, mái vòm. Phía trước nhà cầu, sát sân đặt cái bể nước có mấy con số đắp nổi: 1922. Phía sau nhà cầu là khoảnh vườn bằng phẳng xanh mơn mởn những rau dền, rau cải cúc, rau diếp, rau mồng tơi, mùi tàu, lá lốt … rồi bầu, bí, nghệ, hành. Một cây vú sữa cạnh lối đi từ nhà ra vườn, lá mặt trên xanh, mặt dưới tím, xõa xuống cái giếng tròn xây bằng đá. Khu vườn hai bên lối ngõ, chỉ trồng mỗi cây ăn quả: Quýt, hồng, cam, chanh, na…và rất nhiều cau. Những cây cau chắc trồng trước thời ông nội tôi, cao hơn mái nhà; gốc cau quấn quýt trầu không xanh đậm. Tất cả tọa lạc trên khu đất rộng hơn 1000 mét vuông, trong bầu không khí thanh bình.
Ông nội tôi có đến ba người vợ, bà vợ đầu tên Trần Thị Hai, người làng Đồng Huề, xã Vượng Lộc. Bà thứ hai là Nguyễn Thị Ngoét, bà thứ ba tên Trần Thị Nhu. Bà Ngoét bà Nhu đều người làng Đại bản. Bà Hai sinh được mỗi cha tôi, bà Ngoét sinh được chú Thể, o Biết, o Nên, o Đều, bà Nhu sinh được mỗi o Nuôi. O Biết lấy chồng về xóm Dưng, o Nên lấy chồng về xóm Chợ. O Đều thì làm dâu bên kia sông Nhe, chồng o đan thúng, mủng, dần, sàng được tin cậy khắp vùng. Còn o Nuôi, đẹp nhất nhà, chẳng biết sao lại làm vợ lẽ ông Phần trên làng Yên Huy. Là em ông tôi, một Lý trưởng có tiếng tăm, nhưng không hiểu sao cả ba o đều làm dâu những gia đình nông dân nghèo. Người em trai cùng cha khác mẹ với cha tôi là chú Thể thì ở với gia đình tôi mãi đến sau Cải cách ruộng đất mới thành lập gia đình và về ở nhà vợ bên kia sông Nhe.
Mẹ tôi về với cha tôi khi các o đã đi lấy chồng, bà trở thành người chủ của gia đình. Lẽ thường thì gia đình tôi sẽ sung sướng. Mẹ tôi được sống an nhàn. Nhưng ngược lại. Cha tôi nhân ái, bao dung, lo lắng công việc của người trong làng, ngoài xã, nhưng lại vô tư, có khi dửng dưng với việc nhà. Dường như mấy cái chức Lý trưởng, Chánh tổng chẳng mấy quan trọng đối với lý tưởng sống của cha tôi mà chỉ là phương tiện để ông thực thi cách sống phóng túng, thoải mái đã thành tính cách. Ông săn thú, bẫy chim, đánh cá dưới sông, chơi tổ tôm với người già trong làng. Ngày đẹp trời, ông cưỡi ngựa đi đánh bạc, có lần đặt cả mấy sào ruộng của nhà lên chiếu bạc, hàng năm sau mới chuộc lại được…
3.
Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, cha tôi trả triện Chánh tổng cho Chính quyền. Năm 1946, ông vào Đảng, làm Trưởng thôn Đại bản. Năm 1947 lên làm Chủ tịch Uỷ ban hành chính kháng chiến xã Bạt Trạc mãi đến hết năm 1949. Năm 1950 làm Hội trưởng Liên Việt xã Hồng Phong, rồi Thẩm phán Tòa án huyện Can Lộc. Khác với trước, ông ham chơi quên phận sự của mình, nay ông hết lòng vì công việc, liên tục 9 năm cho đến 1953 thì gặp Giảm tô, rồi Cải cách ruộng đất. Và dĩ nhiên những người từng dính dáng với thực dân phong kiến không thể ở trong bộ máy lãnh đạo của chế độ mới.
Bước phân định thành phần trong chương trình CCRĐ chưa triển khai. Tất cả tập trung cho cái gọi là Giảm tô. Nói đầy đủ là “ đấu tranh bắt kẻ giàu có phải giảm tô và thoái tô. Theo sắc lệnh năm 1949, nông dân, tá điền được giảm 25% tô, nghĩa là được hưởng 25% hoa lợi thu được trên đất lĩnh canh, lấy vào phần của địa chủ / người giàu có. Đã thế còn phải thoái lại tất cả 15% tô kể từ khi có sắc lệnh, năm 1949 cho đến năm 1954. Với gia đình tôi số thoái tô tính đến 32 tạ lúa là quá lớn. Thầy, mẹ tôi phải bán ngôi nhà chính 5 gian bằng gỗ dổi. Sau vụ tô tức ấy, anh Quang và chị Nhiệm đang học lớp 5 Trường Lam Kiều phải nghỉ học. Mùa đông năm đó, mẹ tôi kể, rét tê tái và mưa dầm dề. Áp Tết vẫn rét và mưa. Không khí nặng nề, thắc thỏm vây bủa gia đình tôi.
Đầu năm 1954, Đội về làng. Đội có khoảng 5 người. Họ là những cán bộ tại chức ở những cơ quan nào không ai hay. Đội trưởng nghe bảo nguyên là Trưởng Ban kiểm tra của Huyện ủy một huyện ở Nghệ An. Đội phân tán về ở tại các gia đình bần cố nông, “3 cùng”, cùng ăn, cùng ở cùng làm với gia đình; Đấy là thời gian Đội thâm nhập tình hình địa phương, nắm tư liệu cụ thể để quy định thành phần. Cố nông là những gia đình không có ruộng đất, nhà cửa phải ăn nhờ, ở đợ. Bần nông là có nhà có chút ít ruộng đất, chủ yếu là lĩnh canh. Trung nông thì không phát canh, không lĩnh canh, không thuê mướn người làm. Phú nông cũng như trung nông nhưng khác là có thuê mướn người cày cấy. Địa chủ là phát canh thu tô. Sau này có thêm thành phần bóc lột là những người sống bằng nghề buôn bán, nhưng có một it ruộng phát canh. Cường hào gian ác là những hương chức, quan lại thời phong kiến, bí tố là có đánh, giết nông dân.
Đấu tranh giảm tô và thoái tô ở làng tôi và những làng lân cận không căng thẳng như nhiều vùng quê khác. Cũng có đấu tố, có tịch thu của cải những gia đình không đủ lúa đóng nộp, có dựng chuyện tố oan, có hô khẩu hiệu, có khổ chủ được bồi dưỡng, tập dượt để đấu tố…Nhưng chưa có Tòa án nhân dân đặc biệt mở các phiên tòa xét xử và thi hành án tại chỗ. Sự ấy phải sang đầu năm 1955, khi cuộc Cái cách ruộng đất ngùn ngụt hơi nóng chính trị và hơi nóng nhân tình thế thái.
Tết Ất mùi năm 1955, kinh tế vô cùng khó khăn. Vụ Đông xuân gặp hạn hán, lúa chết nghẹn, khoai sắn không trồng được. Địa chủ, nông dân đều đói, và không ít người suy dinh dưỡng.
Khi Quốc hội Việt Nam dân chủ cọng hòa ban hành Dự luật Cải cách ruộng đất ban hành (ngày 4-12-1953), cha tôi đang là Đảng viên, Thẩm phán Tòa án nhân dân Huyện Can Lộc. Cảm nhận được những chuyển động của thời cuộc và thời tiết chính trị của đất nước, cha tôi lựa chiều nóng, lạnh tìm lối đi cho mình thế nào tôi không biết và có lẽ mọi người trong gia đình cũng không ai biết. Cha tôi trở nên trầm lặng, đăm chiêu, giữa đêm ông thức dậy đi bách bộ từ nhà ra sân, từ sân vào nhà, có khi đứng một chỗ lặng yên hàng giờ. Chắc rằng, ông đã linh cảm tới chuyện chẳng lành.
Làng xóm, họ hàng chìm trong không khí hận thù giai cấp. Người nhà giàu trở nên rụt rè, người nhà nghèo ngấc mặt vênh vang. Buổi tối, loa to, loa nhỏ kêu gọi dân làng tập trung ở bãi cỏ dưới cây đa trước đền Thánh Mẫu. Đội Cải cách, dân quân, cốt cán… thúc giục, dọa đẫm dân làng tố cáo “bọn địa chủ, cường hào”.
Sau Tết Ất Dậu (1955), cha tôi bị đưa ra đấu tố đầu tiên. Với 3 mẫu ruộng; trong đó 1 mẫu ruộng phát canh, 2 mẫu lĩnh canh và từng làm Chánh Tổng nên bị quy là “địa chủ, cường hào gian ác”. Những bần cố nông gọi là khổ chủ lên đấu được chọn lựa từ trước, được Đội bồi dưỡng lời lẽ, tư thế. Khổ chủ nào đấu không trúng ý của Đội sẽ bị kéo xuống để người khác lên thay. Bịa đặt, cường điệu tội ác của cha tôi thì không kể nổi. Mẹ tôi bảo, người đấu tố là kẻ ăn không nói có, cạn tàu ráo máng, táng tận lương tâm; trong số đó có cả hai người em cùng cha khác mẹ với cha tôi là o Biết, o Nên. Họ nhảy múa, chửi rủa, cào cấu…Sau cuộc đấu tố, cha tôi bị dẫn đi giam trong chái nhà kho Hợp tác xã nông nghiệp làng Rú Đất. Hàng ngày, anh Quang đưa cơm lên cho cha. Một lần ở chỗ cha về, anh vừa khóc vừa nói với mẹ rằng là sau bữa đấu tố khuôn mặt Thầy nhiều chỗ vẫn còn rớm máu; và rằng, Thầy muốn uống bát nước chè xanh. Chè không có, nếu có cũng không biết nấu vào đâu, nấu được cũng không đưa đến được cho thầy. Mẹ khóc. Chị Nhiệm khóc, rồi cả nhà khóc theo.
Ngày hôm sau, tức là sau cái đêm đấu tố kinh hoàng ấy, Đội lập hồ sơ đấu tố trình lên Liên đội (cấp trên khu vực); Liên đội trình lên Đoàn ủy. Án được định đoạt từ Đoàn ủy. Xét tỷ lệ phần trăm Địa chủ, bóc lột, cường hào gian ác, tử hình… trên tổng số dân cư của địa phương, Đoàn ủy gửi hồ sơ về cho Tòa án nhân dân xã. Tòa án gồm ông Chánh án là cán bộ Đoàn ủy, Thẩm phán, thư ký; năm, bảy bần cố nông được Đội chọn làm Hội thẩm. Ngay hôm ấy, Đội mở phiên tòa xét xử cha tôi. Gia đình tôi không ai được ra khỏi nhà. Không ai nghe lời kết án của cái Tòa án tôi vừa kể trên. Bản án được thực thi vào ngày hôm sau.
Cả nhà tôi không ai nhìn thấy cha vào giây phút rời cõi trần...
Gia đình tôi bị đuổi ra khỏi nhà. Mẹ dắt díu anh chị em chúng tôi đến ở trong nhà bà Cu Dục. Nhà tre một gian hai chái chừng mười lăm mét vuông nằm ngoài rìa làng lọt thỏm giữa tre pheo và cây dại. Nhà có lối ngõ nối với đường làng, nhưng khi gia đình tôi đến ở, lối ngõ bị nông dân rào kín bằng tre gai. Mẹ tôi phải bảo các anh chặt mấy bụi cây dại phía sau nhà mở lối ra khác. Lối ấy là một bờ đất con chạch chạy giữa hai đám ruộng sụp bùn, lõng bõng nước bị trẻ con trong làng căm đầy gai tre. Bị bao vây, bị o ép, gia đình tôi không ai dám ra khỏi nhà.
Hai cái xoong nhôm, một cái nắp vung, mấy gói khoai khô, khoai deo và mỗi người thêm một bộ áo quần áo là tài sản cả gia đình tôi khi ra khỏi nhà được mang theo. Hàng ngày, buổi trưa, tối, mẹ chia cho mỗi người một vốc khoai khô hoặc khoai deo, ăn xong thì uống nước lã lấy trộm ở cái giếng làng trước miếu Phát Lát tôi đã kể ở trên. Cái đói giày xéo dạ dày mọi người. Cái đói khiến ai cũng trở nên liều lĩnh. Chú Thể và Chị Nhiệm men theo lũy tre làng về nhà luồn người qua lỗ thông gió đầu hồi nhà ngang vào chạn mở nắp chum sành lấy khoai khô, khoai deo, đậu đen. Đêm hôm sau, chú Thể còn lấy được cái cối giã cua có cả chày bằng gỗ mít. Cái cối trở thành một vật dụng vô cùng quý giá cho những ngày sau đó. Chúng tôi dùng cối giã dam nấu canh khoai môn nước, giã lúa chét mót được trên ruộng toóc làm lớ. Anh Mạo và tôi ra vườn ngắt lá tra, phát cho mỗi người một lá làm thìa xúc lớ - một thứ bột khô, nhám của vỏ lúa, không mùi không vị. Tám người ăn thì bốn người bị nghẹn. Mỗi lá lớ mẹ tôi phải chiêu một ngụm nước, chầm chậm, vậy nhưng vẫn nghẹn đến chảy nước mắt, nước mũi.
Hàng ngày, mờ đất mọi người trong nhà đã phải ra đồng. Người thì đi mót khoai, nhặt lúa chét, bắt dam, người thì xuống sông mò hến, xúc tôm tép. Mà có phải được tự do đi lại đâu; cứ phải lẩn tránh dân quân và bọn trẻ choai choai trong làng. Họ chặn cả đường tìm kiếm cái ăn của anh em chúng tôi. Trong những ngày gian khó ấy, một số người tốt bụng đã trốn tránh Đoàn, Đội cải cách, dân quân, ném vào cửa nhà tôi cái nồi nhôm, mảnh chăn sợi, khoai sắn, có khi là cả một gói gạo…Đấy là những người từng được bố mẹ tôi bao dung, giúp đỡ trong nạn đói 1945 và những khi họ gặp rủi ro, tai nạn. Lòng tốt của bà con trong làng ngoài xã, cùng những thứ anh chị em chúng tôi bươn chãi tìm kiếm ngoài đồng, ngoài bãi, dưới hồ đầm, sông hói cũng không đắp đổi qua bữa nổi. Cái đói vẫn giày xéo trong dạ dày mọi người. Đã đói còn thêm cái rét Đại hàn tháng Chạp. Chuyện ngủ trở nên cơ cực. Bảy người chỉ được mỗi một cái giường ọp ẹp dành cho mẹ và tôi, còn thì nằm nép vào nhau trên chiếu cói, nống nia trải giữa nền nhà đất ẩm ướt. Chú Thế và chị Nhiệm lại mò mẫm trong đêm trở lại nhà lấy trộm rơm rạ về trải lên đất làm “nệm” để giữ hơi ấm. Cứ thế, ngày qua ngày, những ngày dài dằng dặc…
Chỉ tiêu địa chủ, phú nông bóc lột đã thực hiện xong, những cuộc tố khổ, tra tấn địa chủ, tay sai Quốc dân đảng không còn hấp dẫn nông dân. Chắc hò hét, chửi bới, bịa đặt đêm liền đêm khiến họ mệt mỏi; vả lại họ còn việc khác trong nhà, ngoài đồng phải làm. Và phải chăng chút trắc ẩn trong mỗi con người bị dìm xuống dưới sự xung động bầy đàn hàng tháng trời đã bắt đầu cựa quậy.
Những gia đình địa chủ: Ông Thanh, Ông Thành Xóm Chợ, Ông Dương Xóm Dưng, Xóm làng thì nhà tôi, nhà ông Trát, Ông Bộ Đậu, bên kia sông Nhe làng Đông Sơn thì Ông Châu Tuấn, ông Chắt Chương… tự giác tìm đến nhau Họ cùng chung suy nghĩ, đã khỏi “cửa tử”, nay làm sao để kiếm sống khi chỉ hai bản tay trắng, khi vừa trải nửa năm điêu đứng, sức lực không còn mấy vốc? Nhìn gần, nhìn xa, thấy con tôm, con cá, choẻn lúa, củ khoai ở đồng bãi, sông ngòi trong làng, ngoài xã đã cạn kiệt, không còn để “Săn bắt, hái lượm”. Phải tìm ra cái khác, ở nơi khác. Hiện lên trong ý nghĩ mọi người một thế giới tự do, giàu có là rừng rú. Rồi bắt đầu kết thành từng nhóm đi rừng. Chị Minh, chị Nhiệm, anh Quang đi lẩy củi, anh Tấn đi cắt lá chuối, lá giong. Anh Mão thì đã đi ở chăn trâu cho nông dân. Sáng sớm khi chưa rõ mặt người bốn người lặng lẽ ra đi. Nhà còn mỗi tôi và mẹ. Cữ quá chiều, mẹ tôi xách cái ấm sứ sứt vòi đựng nước lạnh đi “ngước” người ở rừng về. Còn lại một mình, tôi ngồi bệp giữa nền nhà cạnh cửa ra vào nhìn dọc bờ ruộng đã trở thành lối ngõ. Trời tối, nghe gió rền rĩ trong những lùm cây quanh nhà, nghe tiếng loạt xoạt trên mái nhà. Rồi thì thấy những cái bóng đen nhoằng qua cửa ngay trước mặt. Tôi không dám thở mạnh, lồm cồm bò vào sát bức vách nứa, kéo tấm chăn sợi thủng lỗ chỗ trùm kín đầu …Sau đó thì thiếp đi, chập chờn trong sợ hãi. Tôi trải qua nhiều đêm cùng nỗi sợ hãi như thế.
Từ ngày các anh, chị tôi đi rừng, cuộc sống gia đình được đổi khác, dễ chịu hơn chút. Gánh củi của chị Minh bán được 6 hào, còn gánh củi của anh Quang và chị nhiệm ít hơn bán được 4 hào, gánh lá chuối của anh Tấn mẹ tôi thức thâu đêm tách ra từng bó nhỏ bán cho các bà hàng cá góp lại cũng được 4 hào. Tổng cọng một ngày nhà tôi làm ra 1đồng 4 hào đủ mua gạo và thức ăn cho ngày hôm ấy. Cứ như trời sinh, trời dưỡng, thời ấy gạo chỉ 2 hào 1 kg, khoai sắn thì tính bằng tiền xu. Chỉ duy nỗi sợ hãi của tôi vào mỗi buổi tối trong căn nhà ẩm thấp lặng im, rờn rợn những bóng đen chập chờn, vẹo vọ thì kéo dài mãi đến ngày chị Minh, chị Nhiệm chuyển sang buôn nồi đất từ Cổ Đạm, Nghi Xuân về bán ở chợ Nhe, chợ Tổng thì chiều tối mẹ không còn bỏ tôi lại một mình với bóng tối và nỗi sợ hãi để đi “ngước” người đi rừng nữa.
4.
Những ngày gian nan cơ cực với bao nỗi buồn đau ấy, nặng nề trôi. Đầu năm 1956, Hội nghị Trung ương đảng lần thứ 9 chỉ thị đình chỉ Cải cách ruộng đất và tháng ba năm ấy, Quốc hội họp tường trình bản báo cáo các sai lầm và biện pháp sửa sai. Cuối năm 1956, Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương đảng quyết định phát động chiến dịch sửa sai, phục hồi lại tài sản, chức vụ cho cán bộ, bộ đội bị đấu tố. Là thế, nhưng mãi đến tháng 11 năm 1956, gia đình tôi mới nhận lại nhà cửa vườn tược. Ngày chúng tôi về nhà đã cuối tháng chạp, trời nắng, không khí ấm áp. Mẹ đi trước, anh chị em chúng tôi đi sau, nhiều tâm trạng, nỗi niềm quá nên không ai nói gì. Niềm vui xen lẫn nỗi buồn tủi. Nhìn trước ngó sau, thấy mọi thứ vẫn đầy đủ, nghĩa là vẫn hai cái nhà và 1500 mét vuông đất vườn, nhưng dĩ nhiên nó không còn cái thần sắc trước nữa. Rặng tre dày xít bao khu vườn xanh mướt cây trái giờ chỉ còn dăm ba cây gầy guộc, chơ vơ. Hai cột nanh uy nghi cạnh sân không còn. Những bức tường xây, những mái ngói sỉn màu, cột xà nhăm nhít vết cưa chém, cánh cửa gỗ xộc xệch, nứt nẻ. Mọi người dọn dẹp, sửa sang lại nhà cửa, cuốc xới vườn tược. Mấy tháng trời nay mới được nghe tiếng cười. Tuy vậy, chúng tôi chưa thể hòa nhập với dân làng, nói đúng hơn là những người nông dân trong làng, ngoài xã chưa có quan hệ bình thường với gia đình tôi. Cuộc Cải cách ruộng đất đã làm tan nát tình nghĩa bà con họ hàng, láng giềng, chòm xóm. Những người từng đấu tố cha tôi, vu oan gía họa cho gia đình tôi, một số đang mặc cảm tội lỗi, một số thì chưa xóa nổi sự đố kỵ, ghen ghét từng ăn rễ vào lòng, thế nên không khí nặng nề vẫn bao trùm lên xóm làng. Bốn bà o ngày giỗ ông nội, bà nội (bố và mẹ của họ) chỉ o Đều, o Nuôi loáng về thắp hương vái lạy trước ban thờ, còn o Nên, o Biết thì không. Mẹ tôi bảo, thời thế làm con người ta nên tốt, nên xấu. Đời nó sòng phẳng ai sống nhân nghĩa thì có phúc phận; trời phân định hết.
Một thời gian sau, đủ mọi người trong gia đình, mẹ tôi nói, thầy mất mà không một ai ruột rà thân thích ở cạnh, mấy năm rồi nằm một mình ở Đồng Lềnh ói nước, chắc là khổ cực lắm. Mẹ muốn đưa thầy về ở cạnh ông bà và gần gia đình. Tháng 10 năm 1958, Cậu Hoàn, em út của mẹ và chú Thể cùng anh Sâm Quế trong làng đứng ra lo việc trọng đại ấy. Nhiều người trong làng, ngoài xã có cả những kẻ từng gây ra tai họa cho gia đình tôi cũng đến tiễn đưa cha tôi về dăm Làng Bùi, giữa Đồng Sau, an táng cạnh cạnh ông nội Phạm Đề và bà nội Nguyễn Thị Hai. Ngày đưa cha về, mưa và gió rất lạnh, tôi trầy trật theo sau mẹ và các anh, các chị. Tôi đã không nhớ, mọi người nói với nhau những gì. Sau này nhiều lần nhớ lại tôi mới lý giải nổi tâm trạng của mình hôm ấy: Những tháng ngày ngắn ngủi được gần gũi cha, tôi còn quá bé, lớn lên một chút thì gặp đận đói khổ, tủi cực, rồi tiếp đó trong cái đầu non nớt cứ bùng bình trống kèn, trong mắt thì đỏ rực băng cờ của những cuộc thiếu nhi cổ động Việt- Trung - Xô kết đoàn…
Sau ngày đưa cha ra khỏi dăm Đồng Lềng về với đất làng, không khí trong nhà như thanh thoát hơn, nỗi thương xót, day dứt từng trĩu nặng trong lòng mọi người dường như có vơi nhẹ hơn.
Bấy giờ anh Quang và chị Nhiệm học lớp 5 Trường tư thục Lai Thạch, mỗi tháng mỗi người đóng 5 cân gạo, mẹ bảo cho Quang học hết lớp năm, rồi thi vô Trường Lam Kiều, còn Nhiệm thì ở nhà giúp mẹ. Chắt thì xem có thương yêu ai, có ai thương yêu mình thì lập gia đình đi. Với chú Thể thì mẹ nói dài hơn, lâu hơn rằng, em gắn bó với anh chị gần ba chục năm, chịu chung nóng lạnh cùng nhà này; đến được đi với bần cố nông để an lành em cũng từ chối. Và rằng, nay lấy vợ được rồi. Mấy tháng sau, chú Thể lấy chị Thanh bên kia sông Nhe và về ở rễ bên ấy. Rồi chị Chắt đi làm dâu họ Đặng ở Khố Nội. Một năm sau nữa, chị Nhiệm lấy chồng về Thanh Lộc, rồi anh Quang cưới vợ. Những niềm vui ấy đã đưa lại nụ cười trên gương mặt vốn đầy vẻ ưu tư, lo lắng của mẹ tôi. Cả chuyện gia đình tôi không được vào Hợp tác xã nông nghiệp mẹ cũng không bận tâm. Những thiệt thòi, mất mát, những đau đớn, tủi cực mẹ gánh chịu thời gian qua chạm đến độ tận cùng rồi, nên chẳng còn nỗi tủi cực, sự thiệt thòi, mất mát nào nặng nề hơn nữa. Được trả lại 3 sào ruộng và một con bò, mẹ bảo, chừng ấy chăm làm sẽ thừa cái ăn, cái mặc cứ là vui vẻ, an nhiên.. Là nói thế, mọi người trong nhà nghe thế, nhưng sâu sa trong lòng không khỏi mặc cảm thân phận, thứ mặc cảm từng đeo bám anh em chúng tôi vừa nguôi ngoai nay nó lại thức dậy.
Ra khỏi làng như một tiếng gọi trong tâm thức các anh tôi. Năm 1960, anh Quang nhờ cậu Thụy, anh cả mẹ tôi đang là Công trình sư Đường Sắt Việt Nam đưa ra Hà Nội đi trắc đạc đường sắt. Vài tháng sau anh thi đậu vào trường ngoại ngữ, học tiếng Trung để phục vụ cho công trình xây dựng nhà máy Phân đạm Hà Bắc. Gặp thời Liên xô và Trung Quốc đối đầu căng thẳng, lớp học giải tán, anh chuyển sang học Trung cấp Tài chính rồi về làm ở Nhà máy Cơ khí Trung quy mô Hà Nội. Chị Hường ra ở với anh từ dạo ấy.
Năm 1962, anh Mạo cũng ra đi. Anh vào học trường Trung cấp Kỷ thuật I ở Vinh như đã nói ở trên. Anh Tấn sau ba năm theo học các lớp 8,9,10 Bổ túc Văn hóa thì gia nhập TNXP.
Năm 1963, chị Hường từ Hà Nội về. Tôi và mẹ ở trong ngôi nhà gỗ lim ba gian, có từ thời ông nội bị cháy một lần như đã kể ở trên. Chị Hường ở trong “Nhà Quạt”, bấy giờ đã chuyển lên dựng trên nền nhà giữa. Năm 1964, chị sinh cháu Vinh; lại 4 năm sau sinh cháu Hiền, rồi năm 1970 thêm cháu Phương, năm 1973 cháu Hướng. Năm 1978, cháu Hiền bị đuối nước. 9 năm bốn lần sinh nuôi 3 ngưới con, gần như mình chị lo toan mọi chuyện. Ngoài việc đồng áng Đội sản xuất giao, chị nuôi tằm dệt lụa, bươn bã làm “hàng xáo” (mua lúa về xay, giã giần sàng, lấy gạo bán, lấy tấm cho gà, lấy cám nuôi lợn) để có tiền nuôi con ăn học.
Xin nói đôi lời về những người ruột thịt của tôi. Chung một dòng khí huyết, một môi trường sống, nhưng “cha mẹ sinh con, trời sinh tính”, 6 chị em trong gia đình tôi giống nhau ở tâm hồn trắc ẩn, còn thì mỗi người một tính cách, một thân phận.
Người chị đầu, có tên Chắt. Chị sinh năm 1935, thời cha tôi còn giữ chức Lý trưởng, có chữ nghĩa, nhưng chẳng hiểu sao cha mẹ tôi lại cho chị cái tên quê như thế. Chị Chắt là người nhu mì, luôn nhận phần thiệt thòi về mình. Trong khi chị Nhiệm và các anh tôi đi học thì chị Chắt yên phận ở nhà làm công việc cày cấy, gặt hái ngoài đồng, chăm sóc cây trồng trong vườn. 18 tuổi, gặp cải cách ruộng đất. Sửa sai về thì chị đã trên 22 tuổi, đành yên bề trong lặng lẽ, làm vợ một anh giáo viên dạy cấp 2 tên Đặng Văn Bá thua chị vài tuổi, chậm chạp và hiền hậu. Hai vợ chồng sinh hạ đến 6 người con. Thời buổi làm ăn tập thể Hợp tác xã khó khăn, những đứa con của chị bươn bã kiếm cái ăn là chính, sự học chỉ như kèm theo. Chồng chị mất trong một vụ tai nạn xe máy thương tâm; Hai năm sau chị cũng bỏ cõi tạm theo chồng. Sáu người con của chị sau này đều yên bề gia thất, không giàu sang nhưng cũng đủ đầy cái ăn, cái mặc. Những lần giỗ tết thắp hương trên ban thờ có bức hình của chị Chắt, tôi không bao giờ cầm được nước mắt. Tôi khóc cho một thân phận chịu nhiều thiệt thòi, vất vả, đói khổ và đắng cay.
Người chị gái thứ hai kề chị Chắt là chị Nhiệm.Trước Cải cách ruộng đất Thầy tôi bảo chị Chắt bỏ học để làm công việc đồng áng. Chị lặng lẽ chấp nhận số phận như đã nói. Chị Nhiệm nhanh nhẹn và lý sự, chẳng bao giờ chịu im lặng trước những gì không như ý. Chị học đến lớp 5 rồi mẹ bắt nghỉ vì gia đình không đủ gạo đóng học phí. ( Mỗi học sinh một tháng phải nộp 5 kg gạo). Gặp đoạn Cải cách ruộng đất, chị cùng mọi người trong gia đình (trừ mẹ và tôi) hàng ngày vào “Rú Xanh”, mái Đông của dãy Giăng Màn, chặt củi. Một ngày một gánh đem về bán ở chợ Nhe, chợ Nghèn, chợ Trường. Củi rẻ, “phường củi” tan, chị cùng chị Chắt gồng gánh buôn nồi đất bên Cổ Đạm Nghi Xuân. “Sửa sai”, nhà có ruộng, bỏ củi, bỏ nồi đất chị ra đồng. Một thời gian sau, gia đình vào Hợp tác xã nông nghiệp, làm công ghi điểm, cuối mùa tính điểm lấy thóc. Việc đồng áng thành việc phụ, chị ở nhà nuôi tằm “Một nong tằm là năm nong kén, một nong kén là một nén tơ”. Từ chăm sóc dâu trong vườn, mua dâu trong làng, ngoài xã, nuôi dăm bảy nong tằm cho đến lúc tằm chín, ủ kén vàng, kéo tơ, Một vòng quay dài hàng tháng trời. Chị cần mẫn với tằm, có thể đứng hàng giờ rải lá dâu xanh cho tằm và lắng nghe tiếng tằm ăn rào rào lúc thưa, lúc nhặt. 22 tuổi, chi nhận lễ hỏi của một chàng trai làm nghề đan rỗ rá bên tê sông Nhe. Lá trầu dạm ngõ chưa kịp héo thì bỗng dưng chị một mình đội nếp, cau trầu - sính lễ đi hỏi – qua sông trả lại gia đình người con trai. Mẹ hỏi, vì sao; chị đáp, không hợp nhau và im lặng, Biết tình chị, mẹ và mọi người trong gia đình không ai hỏi gì thêm. Ba năm sau kể từ ngày mối tình đầu tan vỡ, chị nhận lời làm vợ anh Lê Đình Luyện, Kỷ sư Thủy Lợi ở làng Kiệt Thạch….
Anh trai cả là Phạm Đức Quang. Nghe những người cùng thế hệ với mẹ tôi nói, trong 4 người con trai, anh giống cha tôi nhất, từ cử chỉ, tác phong đến tính cách: thong thả, ham chơi, vô tư trước mọi sự của thời thế và của cả gia đình. So với mấy anh chị em trong nhà, cha tôi trọng anh Quang nhất. Mẹ tôi từng kể, mỗi bữa ăn nhà có hai mâm: một ở nhà ngang cho người nhà và người giúp việc, một ở nhà trên cho mỗi Thầy và anh Quang. Chỉ mấy năm giảm tô, cải cách anh phải bươn bã dọc sông bãi, vào rừng rú để cùng mọi người trong nhà lo cái ăn, cái mặc, còn thì suốt năm tháng đi học, làm cán bộ đến nghỉ hưu, thời nào nét vẻ trên khuôn mặt đề toát ra vẻ an nhàn. Anh không hiểu gì về Phật giáo, nhưng sống theo “triết lý buông” của nhà Phật. Cách sống ấy đã giúp anh thoát ra khỏi sự bủa vây của những vướng bận bết bát, nhốn nháo, hư hỏng chung quanh. 40 năm làm công việc kế toán, trước khi nghỉ hưu còn đảm nhận chức Kế toán trưởng của một Dự án giải phóng mặt bằng đường Quốc lộ I gọi là Dự án Pơmu, ký chi đến hàng trăm tỷ đồng. Dự án hoàn thành, nhiều người trong Ban quản lý vướng vòng lao lý, còn anh bình yên cho đến ngày một xe đạp, một cái hòm sắt tây đựng áo quần nhẹ tênh về làng. Con người ấy, về già vẫn khỏe mạnh, vui vẻ sống cùng con cháu. “Chỗ nào được sống thanh thản, an hòa thì đến. Khi nào “đi” cũng là đi đến chỗ thanh thản, an hòa.”. Anh nói thế.
Người em liền kề anh Quang là anh Tấn, Phạm Đức Tấn. Cái tên như một linh ứng với những quãng đời nặng nề, vất vả của anh. Khi gia đình chưa gặp “nạn”, khoảng năm 1953, vì một lý do nào đó, đang học dở lớp 4, Thầy bắt anh bỏ học. Mười ba tuổi đi ở chăn bò làm việc nhà cho nông dân. Mười bốn tuổi, thì đi cắt lá chuối trong rừng sâu về cho mẹ bán ở chợ Nhe. Là người tận tụy có nghị lực, lặng lẽ nhìn thời thế và ngẫm nghĩ chuyện cuộc đời. Không ai biết anh đang nghĩ gì, đang định làm gì. Khi anh Quang, anh Mão đã ra khỏi làng thì anh Tấn vẫn ở nhà. Tuần hai buổi tối anh đi bộ xuống Nghèn cách nhà 8 cây số học Bổ túc văn hóa. Dằng dặc 3 năm, không đếm được anh đã đi mấy trăm cây số để lấy được cái bằng Tốt nghiệp lớp 10. Năm 1965, anh gia nhập Tổng đội N55. P18 Thanh niên xung phong. Suốt ba năm anh làm đường giao thông trong bom đạn ác liệt ở Ngã ba Đồng Lộc. Năm 1968, hoàn thành nghĩa vụ “Ba sẵn sàng” anh thi đậu vào Trường Đại học Hằng Hải, Hải Phòng. Tốt nghiệp anh về công tác tại phòng Kỷ thuật Nhà mấy đóng tàu Việt Nam- Phần Lan. Năm 1984, nhà máy cử anh đi Phần Lan. Đấy là người duy nhất trong gia đình tôi ra nước ngoài.
Anh kề liền anh Tấn là anh Phạm Trọng Mạo. Từ học sinh cấp 1, cấp 2 đến cấp ba anh nổi tiếng học giỏi. Thế nhưng cuộc đời anh lại trải nhiều lận đận. Tốt nghiệp lớp 10, vì lý lịch anh không được vào đại học, anh chấp nhận học Trung cấp Kỷ thuật I. Tốt nghiệp đi làm công nhân, nhưng những con số trong cái đầu thông minh của anh cứ không nguôi cựa quậy. Anh thi đỗ vào Đại học Địa chất, Vui mừng với đời sinh viên được hơn một năm thì anh phải trả giá cho sự kiêu bạc đã thành tính cách của mình. Những người là bạn, tự nhận anh là “thầy”, đã dùng thành phần giai cấp làm sức mạnh đánh anh ra khỏi trường Đại học. Trong gia đình không ai biết anh đã vượt qua cú sốc kinh hoàng ấy như thế nào. Lại trở về với công việc công nhân cho đến ngày nghỉ hưu. “Đủ rồi”, anh nói thế. Lần này cũng không ai biết anh nói “đủ” về cái gì. Đắng cay đủ rồi? Gian khổ đủ rồi? Hay là viên mãn?.
II. TÔI ĐI HỌC
1.
Lên sáu, rồi sang bảy tuổi đang thời Cải cách ruộng đất, tôi không được đến trường. Mãi năm 1958, tám tuổi, tôi bỏ qua lớp 1, lớp 2 vào học lớp 3 trường Vĩnh Lộc. Năm 1960 thi đậu vào lớp 5 trường cấp 2 Yên Lộc. Năm ấy tôi vẫn còn “nói ngọng”. Thầy giáo chủ nhiệm Nguyễn Huy Thắng, quê làng Tràng Lưu ghi trong học bạ:“Có năng khiếu khoa học tự nhiên nhưng vì nói ngọng nên hạn chế khả năng…”. Lớp 6 vẫn thế, vẫn nói ngọng, vẫn khá về khoa học tự nhiên. Năm lớp 7 thì có lời ghi của thấy chủ nhiệm Phan Công Tùng: “ Có khả năng vươn lên loại giỏi về môn quốc văn.” Những năm học cấp 1, cấp 2, hầu như tôi không làm bài tập về nhà. Sách vở đựng trong cái cặp da sờn mòn anh Quang để lại hàng ngày tôi chỉ mở ra khép vào một lần lúc đến lớp. Chủ nhật, nhiều là ngày nghỉ hè, tôi nhận kẹo kéo mật của anh Phan Sỹ Tiến trong làng đưa đến các chợ bán lấy tiền lãi. Tưng mưng sáng thì ra đi. Một túi kẹo mang sau lưng với cái bàn xếp làm bằng một tấm ván gắn vào hai chân gỗ bắt cheo vào nhau tôi đến chợ Huyện Bình Lộc, Chợ Lù ở Tân Lộc,, chợ Vi Kim Lộc, chợ Tổng Song Lộc…Dựng “bàn” cạnh lối vào chợ, rồi đứng nhìn người vào, người ra, ngóng chờ ai đó dừng lại trước “bàn kẹo” của mình. Không nói, chỉ gửi lời chào mời trong ánh mắt nhìn. Và dường như cái ánh mắt của tôi nó thao thiết, nó tội nghiệp đã làm khách động lòng. Những người đàn bà ven biển, mặc váy, đầu quấn khăn đen, miệng nhai trầu, áo quần nồng mùi cá nướng đem đến cho tôi nhiều niềm vui nhất. Họ không mặc cả. Tính kẹo trả tiền. Một cái 2 xu. Bữa may mắn bán được 500 chiếc kẹo thu lãi 10 hào. Đầu óc tôi chỉ mỗi kẹo với những đồng, những xu, những tấm bánh đa, những gói bánh đúc…không có kẻ hở cho con số, con chữ chen vào.
Năm 1963, tôi thi đậu vào lớp 8. Trường đóng dưới chân núi Nghèn cách nhà 9 cây số. Năm học 9 tháng thì ba tháng mười, mười một, mười hai, mùa đông mưa rét, tôi phải ở trọ trong nhà Bà Thanh xóm Phúc Sơn. Từ nhà bà Thanh đến trường phải đi qua nhà thờ Họ Ngô, thường gọi Ngô Trảo Nha. Ông tổ dòng họ nổi tiếng này là Ngô Phúc Vạn, ở trên đất này từ thế kỷ XV, tính đến nay cư dân họ Ngô đã sống ở làng Phúc Sơn hơn 400 năm. Sử sách ghi, họ Ngô Trảo Nha có đến 18 đời Quận công, còn dưới Quận công xuống đến Cử nhân thì không tính hết. Nhà thơ Xuân Diệu thuộc đời thứ 19 của họ Ngô Trảo Nha. Nhưng ông không sinh ra và lớn lên ở đất này. Có lẽ vì thế mà tình cảm của ông với quê hương chẳng mấy đậm đà. Hai năm ở làng Phúc Sơn, tôi chưa một lần thấy ông về nhà thờ tổ, cũng chưa được đọc bài thơ nào ông viết về làng Phúc Sơn ngoài bài Cha đàng ngoài , mẹ ở đàng trong…
Trở lại chuyện ở trọ…Thường đầu tuần, mẹ chuẩn bị cho mấy cân gạo, một chai nước mắm, một lọ cà muối mặn để tôi mang theo. Vào bận ăn, nước mắn chan cơm là chủ đạo, còn thì thỉnh thoảng chủ nhà trọ cho thêm bát canh hay đĩa rau xào. Vài ngày một lần sau khi làm xong bài tập thì mặc quần đùi ra đồng bắt dam. Vừa qua mùa gặt, cánh đổng trải ra biền biệt. Những đám ruộng trơ gốc rạ, chỗ nước lấp xấp, chỗ nước ngập cổ chân. Dụng cụ bắt dam là một cải oi (Giỏ) đeo nơi thắt lưng và cái nhủi làm bằng một tấm đan tre cật hình tam giác gắn vào hai đoạn tre, gọi là càng. Áp càng vào bụng, đẩy tấm đan trôi xát trên gốc rạ, hoặc cỏ. Dam trôi vào tấm đan chỉ còn việc bắt cho vào giỏ. Cũng có bữa xuống sông Nghèn bắt cá bống đất trong gốc bần. Những con cá mụ mẫm như ngón tay chậm chạp đến lờ đờ giữa những rễ bần và rong rêu, bắt một cách thật dễ dàng. Nếu chủ nhà trọ hào phóng cho thìa nước măm thì khỏi bàn, bằng không thì hòa muối trắng vào nước lã kho kỳ cạn khô. Đấy là loại thức ăn sang của lũ học trò chúng tôi. Hết mùa mưa rét, sau Tết âm lịch, “tháng giêng ngày rộng tháng dài” thì tôi và nhiều bạn học sinh khác rời nhà trọ về nhà.
Năm 1965, ngày mồng 5 - 8, máy bay Mỹ ném bom xuống Núi Nài mở đầu cho cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc. Rồi bom nổ dọc sông Nghèn cách lớp học chúng tôi 800 mét đường chim bay. Trường chuyển sang học buổi tối từ 18 giờ đến 20 giờ. Ngày này sang ngày khác, tôi qua cầu Liên Lạc, đi bộ 8 cây số xuống Trường. Học xong lại một mình vừa đi vừa chạy trong bóng đêm qua làng Xuân Liệu qua nghĩa địa làng Kiều Mộc về nhà…Cứ thế suốt 3 tháng với 80 đêm. Sau đó thì Trường sơ tán lên Thanh Lộc, dưới chân núi Cài. Đào hào, đắp lũy, lớp học nửa chìm, nửa nổi trong làng Kiệt Thạch, dưới chân núi Sạc Sơn.
Năm học lớp 10, năm 1966, tôi được chọn đi thi học sinh giỏi văn toàn miền Bắc. Cùng đi với tôi có Lê Thành Nghị người Tân Lộc. Đấy là một chuyến đi không bao giờ quên được. Chúng tôi phải lên xã Sơn Bằng, Huyện Hương Sơn để luyện thi. Đêm trước ngày đi, Lê Thành Nghị đến nhà tôi và ngủ lại. Sáng hôm sau trời chưa rõ mặt người hai đứa đã tay xách, nách mang cơm gói, gạo đùm mẹ tôi chuẩn bị từ tối hôm trước. Đang những ngày Mỹ ném bom hủy diệt ngã ba Đồng Lộc, Linh Cảm. Chúng tôi đi theo đường 12, rồi vào đường 15A; vào Quốc lộ 8 lên Hương Sơn. Tưng mưng sáng, bầu trời như chia làm hai nửa; một nửa phía Tây Nam trắng đục sương mù lẫn khói bom, nửa phía Tây Bắc, trước mặt chúng tôi thì xanh văn vắt, đây đó còn lấp lánh những ngôi sao lặn muộn. Thỉnh thoảng tôi lại giật mình chùng chân vì tiếng máy bay trinh sát F.4C và tiếng bom nổ chát chúa phía Đồng Lộc. Vượt qua được Cầu Đôi trên đường 8B nơi Mỹ thường xuyên đánh phá, chúng tôi rẽ vào đường làng để lên đò ngang qua sông Ngàn Sâu tránh phải qua cầu phao Linh Cảm, một trọng điểm ném bom của Mỹ. Lại đi bộ dọc đường 8B theo bờ Nam sông Ngàn phố, rồi sang sông men theo bờ Bắc để tránh bom tọa độ ở Cầu Nầm. Quá trưa sang chiều chúng tôi mới tới được điểm tập trung. Đấy là một ngôi nhà gỗ của một phụ huynh học sinh xã Sơn Bằng lọt thỏm giữa một vườn tre, tro, mít, trầu không và cau. Lớp học gồm 7 người chọn từ các trường cấp ba trong tỉnh, đứa nào đứa nầy gầy nhom chỉ những đôi mắt là sáng long lanh. Hai giáo viên bồi dưỡng văn cho 7 sỹ tử chúng tôi là thầy Lê Đức Định, người Sơn Hòa và thầy Trần văn Kính người Đức Nhân. Sau một tháng thì thi. Đấy là kỳ thi học sinh giỏi của miền Bắc Xã hội chủ nghĩa. Tôi nhớ mang máng đề thi là bình luận phong cách thơ Hồ Chủ tịch. Mỗi Lê Thành Nghị đạt giải Khuyến khích. Tôi trở lại lớp học với chút danh dự là học sinh giỏi văn của Tỉnh từng tham dự kỳ thi học sinh giỏi cấp Quốc gia. Chút danh dự ấy đã cứu tôi khỏi trật Tốt nghiệp lớp 10. Năm ấy, tốt nghiệp lớp 10 thi hai môn văn và toán với thang điểm 5. Môn Toán tôi được mấy điểm không rõ nhưng môn văn bình luận câu Các Mác nói với con gái: “Hạnh phúc là đấu tranh”, tôi chỉ được 2/5 điểm. Rồi cũng xong. Ty Giáo dục quyết định đặc cách cho tôi đậu vớt. Chuyện ấy thành một sự kiện thi cử ở trường cấp 3 Can lộc nhiều năm sau đó. Cứ đến mùa thi, các thầy giáo, cô giáo lại lấy tôi làm dẫn chứng cho sự chủ quan và thiếu bồi dưỡng, rèn luyện quan điểm chính trị…
Thời ấy, người tốt nghiệp cấp Ba, thích trường Đại học nào chỉ cần làm hồ sơ gồm đơn xin học, bản khai lý lịch có xác nhận của Uỷ ban hành chính xã gửi cho Ban Tuyển sinh tỉnh. Đấy là một tổ chức trực thuộc Ủy ban nhành chinh tỉnh, không chịu sự lãnh đạo của Ty Giáo dục. Nó có “quyền sinh, quyền sát” đối với học sinh học xong cấp Ba. Từ lời phê của ủy ban hành chính xã trong hồ sơ của Thí sinh, cái tổ chức ấy có quyền quyết định cho ai vào học Trường Đại học nào, đi học ở các nước thuộc phe XHCN nào…Năm 1966 tôi làm hồ sơ xin vào Khoa văn Trường Đại học Tổng hợp, nhưng hồ sơ rơi vào chỗ nào đó trong Ban Tuyển sinh. Sang năm 1967 lại làm hồ sơ xin vào Trường Đại học Sư phạm… Cữ cuối tháng 7 đầu tháng 8 là thắc thỏm chờ giấy báo nhập học. Trong ký ức tôi còn rõ mồn một hình ảnh anh Bưu tá trên đường làng và cảm xúc buồn uất nghẹn khi anh ấy đi qua ngõ. Cảm xúc ấy lặp lại lần thứ hai rồi thứ ba. Năm 1968, sau chuyến đi Dân công hỏa tuyến, phục vụ chiến đấu đánh Mỹ ở Vĩnh Linh, với tấm giấy khen của Mặt trận B5, tôi làm hồ sơ xin đi học Sư phạm 10+3, bụng nghĩ đấy là nơi dễ nhất dành cho những người như mình. Bao người, tốt nghiệp lớp 10 và cả không tốt nghiệp lớp 10, vẫn vào Trường này, học 3 tháng là thành giáo viên. Tôi hy vọng và lo lắng. Bạn tôi, Bùi Quốc Thắng học lớp 10 trường Can Lộc có người cha làm Phó Chủ tịch xã. Thắng bảo đưa lý lịch cho nó, sẽ có cách giúp. Không hiểu bằng cách nào, Thắng đưa lại cho tôi một bản lý lịch với lời phê của Ủy ban hành chính xã, rằng gia đình không có ai theo giặc, rằng, gia đình chấp hành đầy đủ chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước; rằng, bản thân tư cách đạo đức tốt; và rằng, xã đồng ý cho đi học Sư phạm 10+3. Tưởng mọi sự sẽ tốt đẹp, nhưng cái phiếu thẩm tra lý lịch Ban Tuyển sinh gửi thẳng về xã và xã gửi thẳng vào Ban Tuyển sinh với lời phê không chút nương tay của xã đã dập tắt hy vọng của chúng tôi. Thêm một lần thất bại. Và đến lần này thì tôi không còn hy vọng ra khỏi lũy tre làng… Ba năm, ba lần làm hồ sơ, ba lần hy vọng, ba lần thất vọng. Một tâm trạng buồn bã, chán nản tận cùng nối tiếp nhau.
2.
Bao nhiêu tháng ngày dằng dặc, ban ngày, tùy mùa nắng, mùa mưa tôi bắt cá, bẫy chim. Mưa lũ mùa thu tháng 8, nước ngập đồng Cựa, đồng Sau, chỉ loi phoi ngọn lúa chiêm và cây dại; đây đó nhô lên một gò đất, một ngôi mộ. Sóng bạc trắng lườn đuổi nhau trong tiếng gió bấc ràn rạt. Không gian mưa giăng giăng. Chim nhạn trắng, chim choèn đen, rồi én, cò, cói, diệc từ phương trời nào về làng tôi bay lượn trong mưa, trên mênh mông nước, liệng vào cây cối trong làng tìm chỗ đậu. Tôi và nhiều người dân làng chẻ giang thành từng thanh nhỏ, tẩm nhựa lên một nửa thanh đã được chuốt mỏng như lạt buộc, nửa còn lại dày hơn thì vót nhọn phía dưới. Người chèo thuyền, người lội trong nước buộc gio vào cây, cả trên ngọn lúa, cắm gio xuống gò ụ, mồ mả nhô trên mặt nước. Chim mỏi cánh sà xuống đậu, gio nhựa quấn vào lông ngực, lông cánh…Một ngày bơi lội, ngâm nửa người trong nước bắt được vài con choèn, con nhạn.
Mùa nắng nóng, ruộng lúa chỉ còn từng vũng nước nhỏ, đấy là nơi cá tìm đến thở. Tôi khom người lũi trong lúa tìm vũng nước này sang vũng nước khác và chỉ việc cho cá vào “túi vải ba gang”; xong lại lũi giữa lúa về làng tránh sự phát hiện của bảo vệ đồng. Còn bắt cá mùa rét giá dưới sông Nhe lúc nửa đêm khi thủy triều xuống, đơm lừ, đơm đó những bữa mưa giông, quăng chài, thả vó bắt cá chép; còn bắt chim bằng hóc, bằng bẫy giật…
(Ngày nay lũ vẫn còn, nhưng không còn chim về, và gần như không còn cá dưới sông, trên đồng…Bọn trẻ trạc tuổi tôi ngày xưa ấy, chẳng mấy đứa đánh bắt cá, bẫy chim. Suốt ngày đến trường, lớp, ban đêm cắm đầu làm bài tập, còn thời gian rỗi thì chơi những trò chơi điện thoại, xem truyền hình)
Thủa gian nan ấy, bữa ăn của mẹ con tôi vẫn cơm độn khoai khô, khoai deo, nhưng thường là thơm lừng mùi vị các món ăn: cá kho nghệ, cá kho khế chua, chim rang sả ớt, chim nướng than củi. Phiên chợ Nhe thì chị Nhiệm, chị Chắt, có bữa dì Bút, dì Chính ở Trường Lưu đến với mẹ con tôi. Họ mang đến vài chục lá bánh mướt, vài miếng gan, khúc dồi lợn, có bữa kèm theo mấy quả hồng. Đêm đêm tôi rang muối, gói vào tấm khăn vải chờm cho mẹ để giảm bớt những cơn đau dạ dày. Và trong ánh đèn dầu vàng vọt, tôi và mẹ trò chuyện với nhau đủ thứ, trừ chuyện học hành và chuyện ốm đau.
Một hôm, chắc đã qua nhiều đắn đo nghĩ suy, mẹ tôi nói, anh Tấn đi TNXP đã hai năm, một năm nữa là hoàn thành nghĩa vụ “ Ba sẵn sàng”, sẽ được đi học hoặc chuyển vào một ngành nghề nào đó của Nhà nước. Phải tìm ra một nẻo đường đi phù hợp con ạ. Đường đi học, đường đi bộ đội thì tắc rồi, Mẹ sẽ lên Ủy ban xã xin cho con vào TNXP. Không biết mẹ gặp ai ở ủy ban, nơi những người có quyền quyết định số phận tôi. Họ đã năm lần rút ván cầu khi tôi qua sông. Bẵng đi một thời gian mẹ nói, Ông K. Chủ tịch xã bảo, con phải thử thách một đợt Dân công hỏa tuyến, còn thì có được đi TNXP hay không thì quyết định sau.
III. ĐI DÂN CÔNG HỎA TUYẾN
1.
Năm 1968, cuộc kháng chiến chống Mỹ ở vào giai đoạn ác liệt. Để có thêm lực lượng phục vụ kháng chiến, ngoài thanh niên xung phong, công nhân quốc phòng, mỗi huyện thành lập thêm một đại đội Dân công hỏa tuyến. Đại đội huyện Can Lộc cơ cầu 3 trung đội, do ông Lê Túc người Thanh Lộc làm Đại đội trưởng. Hai trung đội nam và một trung đội nữ. Trung đội nữ 18 cô gái trẻ ở xã Minh Lộc. Hai Trung đội nam là những nông dân tuổi trên 40 ở xã Vĩnh Lộc, Nhân Lộc. Chúng tôi tập trung tại Huyện đội, bấy giờ đóng ở xã Quang Lộc. Sau mấy lời huấn thị về nhiệm vụ và những quy định trên đường hành quân, chúng tôi được phát mỗi người một đôi quang gánh, đòn gánh tre, gánh hai cái bồ nứa cao 40 phân, đường kính 30 phân đựng quần áo, võng vải, đồ dùng cá nhân và vài kg gạo hoặc mỳ bột.
Đi bộ xuyên làng này sang làng khác từ Can Lộc, Thạch Hà lên Hương Khê, chúng tôi bắt vào đường mòn Hồ Chí Minh. Đường Hồ Chí Minh còn có tên là đường Trường Sơn là một tuyến Hậu cần chiến lược bao gồm mạng lưới giao thông quân sự, chạy từ lãnh thổ miền bắc Việt Nam vào tới lãnh thổ miền nam Việt Nam, phía đông Trường Sơn đi qua miền trung Việt Nam và phía tây Trường Sơn, có đoạn đi qua hạ Lào, Campuchia. Đây là tuyến hậu cần chiến lược trọng yếu cung cấp binh lực và vật lực hậu cần, vũ khí, khí tài để chi viện cho Quân Giải phóng miền Nam. Trong chiến tranh Việt Nam, lực lượng quân sự Mỹ và quân đội Sài Gòn đã tập trung đánh phá hệ thống giao thông này bằng hàng loạt các chiến dịch bộ binh và không quân. Hàng triệu tấn bom đạn đã được Mỹ ném xuống. Một hệ thống máy móc trinh sát điện tử, được gọi là Hàng rào Điện tử McNamara, được tăng cường sử dụng để nhằm trinh sát việc vận chuyển hàng hóa khí tài của ta và chỉ điểm hướng dẫn máy bay ném bom. Ngoài ra, quân đội Mỹ còn thường xuyên sử dụng chất độc màu da cam cùng một số loại chất độc diệt cỏ khác rải xuống nhiều vùng rừng trên đường Trường Sơn làm trụi lá cây. Các dự án tạo mưa và các chất hóa học tạo bùn cũng được Mỹ sử dụng để cản trở giao thông trên tuyến. Theo văn bản lịch sử chính thức của Cơ quan An ninh Quốc gia Hoa Kỳ (National Security Agency), đường Trường Sơn được quân đội Hoa Kỳ coi là "Một trong những thành tựu vĩ đại của nền kỹ thuật quân sự ở thế kỷ 20” (Theo Wikipedia)
Lúc Đại đội dân công hỏa tuyến chúng tôi đặt chân lên đường Trường Sơn đã quá trưa. Không khí sâm sẫm và mát mẻ. Con đường bị bánh xe ô tô cày xới thành rãnh chạy dưới tán lá cây rừng, hun hút. Đoạn đường khô đi dễ dàng còn những khúc đọng nước, đất nhão ra thành bùn, chúng tôi phải cởi giày dép trầy trật bước. Những đoạn đường dốc, chiến sỹ giao liên đã tạo bậc, chống trơn lầy bằng cách lát bậc bằng cây gỗ. Những đoạn dốc lớn hơn còn có tay vịn để người đi bấu víu, tránh trượt ngã. Cứ một ngày đi gặp một Trạm giao liên. Trạm tương đương cấp đại đội làm nhiệm vụ thu dung, cứu chữa thương bệnh binh, đưa, đón xe vận tải, bộ đội, thanh niên xung phong, dân chính, dân công hỏa tuyến như bọn tôi, tóm lại là nơi dừng nghỉ cho những người vào chiến trường và những người từ chiến trường trở về hậu phương. Trạm giao liên nào cũng có kho lương thực, thực phẩm, bãi nghỉ, hầm hào, trạm xá…nép dưới tán lá cây rừng. Hôm ấy quá chiều, thì gặp Trạm giao liên, đại đội chia thành từng tiểu đội tản vào rừng trong khu vực bãi nghỉ. Các tiểu đội tự lo liệu bữa tối trong những quy định khắt khe về phòng không, khói lửa... Ăn xong, mắc võng vào gốc cây ngủ chập chờn qua đêm. Sáng hôm sau sương mù còn mờ mịt, đã phải cuốn võng, nhận gạo, ruốc thịt có pha trộn thuốc chống sốt rét, tê phù, muối, một nắm cơm cho buổi trưa, rồi tiếp tục lên đường. Cứ thế, ngày đi trong rừng, đêm dừng nghỉ ở Trạm giao liên cũng trong rừng.
Ngày thứ sáu thì đến Cẩm Ly, miền Tây Quảng Bình. Từ Ngã ba Đất Đỏ, nơi giao nhau của của đường Trường Sơn và đường từ Thị xã Đồng Hới sang Lào, chúng tôi men theo một con suối nước róc rách, rồi leo hết cái dốc ngắn vào trong một hang lèn rộng. Bộ đội hay TNXP, dân công hỏa tuyến đã từng ở nơi đây, thấy bếp và những cái bàn gỗ thô chạy dọc theo dãy sạp kết bằng cành cây dưới chân vách đá. Vòm hang cao ngút, vách đá dựng đứng, ướt át. Chốc chốc những con dơi đen và to bằng bàn tay trẻ con liệng loạn xạ trên đầu. Không khí lành lạnh cho dù đang ngày trời nắng ấm. Từ trong hang nhìn ra, phía nào cũng chỉ thấy những mái rừng chập chùng, hun hút.
Chúng tôi ăn đứng, ngủ nằm, hoặc ngồi trên dãy sạp cành cây kết đan bằng mây rừng. Gạo trong bì tải, mỡ hóa học trong thùng phi, rồi thịt hộp, rau muống khô, cá ướp muối…nhãn hiệu Madein China xếp đầy một góc hang.
Cứ chập tối Đại đội ra khỏi hang, đi như chạy qua một quãng đường khoảng 200 mét giữa những cây cổ thụ vào một hang lèn ở dãy núi khác. Không biết hang rộng hay hẹp vì hòm đạn xếp cao chất ngất, dài hun hút. Chúng tôi vác đạn pháo 64 ly, 80 ly, nặng 60, 90 kg xếp lên thùng xe Giải phóng, xe Zin nối đuôi nhau trước cửa hang. Nửa đêm, có khi gần sáng lúc không còn xe vào nhận hàng, chúng tôi mới được trở về. Dọc đường không ít lần máy bay rít trên đầu phải nằm áp sát vào mặt đất lổn nhổn đá, nhắm mắt, bịt tai trong sợ hãi. Đều đặn, lặp đi, lặp lại cái lịch trình: ăn, ngủ, vác đạn, chạy tránh máy bay, suốt hai tháng trời.
Tháng bảy, mùa mưa, chúng tôi chuyển vào rừng Vĩnh Khê, Vĩnh Linh. Từ chỗ chúng tôi ở, đường Trường Sơn nối với Đông Quảng Trị, rồi vượt lên Ba Lòng vào Khu 5, xuyên qua A Lưới đến Quảng Nam, Bình Định. Nhìn đâu cũng thấy dấu vết đạn bom sát phạt. Nhiều thân cây mảnh bom băm nát, đây đó giữa rừng xanh thăm thẳm hiện ra một khoảng trống nhức nhối màu vàng khô của cây lá, còn các nẻo đường nối với đường Trường Sơn thì lầy lội nồng mùi lá mục. Đại đội chia thành từng tiểu đội ở trong những cái lán nửa chìm nửa nổi bám dọc đường Trường Sơn. Mưa ngày này sang ngày khác. Rừng chìm trong biển nước mưa, chập tối màu xanh rừng biến thành màu sẫm đen, ảm đạm. Gần một trăm con người của Đại đội với 13 cái lán nửa chìm, nửa nổi xiêu vẹo, ngỡ sắp bị vùi lấp, biến mất trong thứ mầu đen ảm đạm kia cùng tiếng mưa rào rào vô tận. Là thế nhưng đêm nào cũng vậy, mặc pháo sáng, chớp trời, máy bay địch sàn sạt trên ngọn cây, tiếng bom nổ phía Cồn Tiên, Dốc Miếu, chúng tôi vẫn khoác ni lông đến kho đạn bốc đạn xếp lên những chiếc ô tô nối nhau chờ sẵn trên đường, ẩn dưới tán lá cây. Lại lặp đi, lặp lại cái công việc nặng nhọc là vác đạn xếp lên ô tô.
Bấy giờ là mùa mưa năm 1968, trên đất Quảng Bình tập trung hàng vạn người làm nhiệm vụ bảo đảm Giao thông vận tải, từ Ban xây dựng 67, Cục Công trình I, Công ty Cầu 4 đến các đơn vị TNXP với con số lên đến 6000 người. Thiếu gạo vì kho chứa lương thực bị đánh, các tuyến đường bị chia cắt. Vì vậy đơn vị dân công hỏa tuyến của chúng tôi được rút về dẫu chưa hết thời gian 6 tháng theo quy định. Vẫn theo con đường 5 tháng trước đã đi, khác là xưa đi cùng chiều với các đoàn xe vận tải, những đơn vị bộ đội, Thanh niên xung phong, nay thì cùng chiều với những chiếc xe ô tô, những chiếc cáng chở thương binh, bệnh binh. Đường Trường Sơn không “vui như hội” như trong thơ Chính Hữu, những người đi ra, gặp người và xe pháo đi vào gật đầu chào nhau, thêm đôi ba lời hỏi han, hẹn hò. Đại đội dân công hỏa tuyến chúng tôi, người nào, người nấy đòn gánh trên vai, đôi bồ đựng áo quần với một ít gạo mỳ để ăn ở các Trạm giao liên, có người đèo thêm cái ống pháo sáng để về gò hàn chắn bùn xe đạp, có người giấu mảnh vải bạt, tấm ni lông dưới đáy bồ. Đêm đi, ngày nghỉ, ngày nghỉ, đêm đi, tùy vào đặc điểm các cung đường: Đường qua khoảng trống, đường trong rừng cây, đường ngày bình yên, đường ngày bị máy bay quần đảo. Ròng rã mười hai ngày, đúng vào hôm rằm tháng 4 năm 1968 thì đặt chân lên đất Can Lộc. Tôi nhớ là Đại đội không có tổ chức gặp gỡ, chia tay. Trên đường từ Hương Khê qua Truông Bát, ai thuận nẻo nào về nhà thì rẽ vào nẻo ấy.
IV. LẠI SAU LŨY TRE LÀNG
1.
Khỏi phải nói mẹ tôi vui mừng thế nào khi thằng con út từ chỗ bom rơi, đạn nổ trở về nguyên vẹn. Mấy ngày sau, tôi bị vi trùng sốt rét mang từ rừng Trường Sơn đánh gục. Không có thuốc kyninh. Mẹ cho tôi uống loại nước chế từ cây cỏ trong vườn. Nhờ thứ nước có màu xanh rỉ đồng đắng nghét của mẹ dăm ngày sau tôi đã hết sốt. Ngày lại ngày hết luẩn quẩn trong nhà thì vẩn vơ ngoài vườn hoặc chui vào hầm chữ A sát ngay cửa ra sân. Tôi chưa ra khỏi những ám ảnh bom đạn.
Hàng ngày tôi cùng mẹ ra đồng theo sự phân công của đội sản xuất, hoặc đào hầm liên lạc dọc đường, giúp xây hầm chữ A cho bà con chòm xóm. Chiến tranh, mưa lũ, vụ chiêm xuân hầu như không có thu hoạch. Đói cứ lơ lửng trên đầu, chiến tranh thì lâu mỗi ác liệt, sống, chết cách nhau gang tất, thế nên nhu cầu bao dung, yêu thương thường trực trong lòng mỗi người. Khoảng cách giữa tôi và dân làng đang dần ngắn lại. Tôi thấy ra nét mặt, cách ứng xử, nết ăn uống của người chung quanh …mộc mạc, chân chất và bỗng nghĩ, những con người này không thể tạo nên thảm cảnh “nồi da nấu thịt” thời cải cách ruộng đất, mà là nạn nhân của một thế lực nào đấy mà chinh họ cũng không hiểu. Cả sau này khi bàn về “Mao ít”, “Stalin - nít”- Thứ tư tưởng làm khổ bao thế hệ người Việt- thì những người nông dân quanh tôi cũng chỉ im lặng lắng nghe như nghe chuyện của xứ sở nào.
Làng tôi trở nên vắng vẻ. Thanh niên trên 18 tuổi hầu hết ra chiến trường. Tôi chưa phải đoàn viên. Hồi học lớp 10, suýt nữa cũng được vào Đoàn, nhưng hôm biểu quyết, tay Lê Minh Châu, Bí thư Chi đoàn lớp 10 A, kiên quyết phản đối. Thế nên tôi chỉ là một thanh niên được sinh hoạt trong Chi đoàn Vĩnh Phúc gồm Đoàn viên, Thanh niên xóm Chợ, xóm Làng, xóm Dưng. Đấy là những người chưa đầy 18 tuổi thất học và một số ít là con một (Gia đình có một con trai), hoặc bị tật nguyền không vào chiến trường. Vì chưa là Đoàn viên tôi cũng chỉ là dân quân II trong tổ chức Dân quân Du kích thời chiến. Nhưng buổi sinh hoạt hoặc tập luyện, tôi đứng xếp hàng trong hàng Dân quân 2 cùng với các chị phụ nữ, các ông trung niên.
Đầu năm 1969, một hôm, thầy giáo Phan Văn Toa, dạy BTVH xã vốn là bạn của các bà chị gái tôi, đến nhà bàn với mẹ tôi cho tôi đi dạy cấp 2 Bổ túc văn hóa. Thoắt cái tôi trở thành thầy giáo. Các lớp học Bổ túc văn hóa dành cho những cô gái ở ba xã Vĩnh Lộc, Khánh Lộc và Nhân Lộc vì một lý do nào đó, thi không đậu vào cấp ba, hoặc Trường cấp ba ở xa nhà, cũng có người sắp cưới chồng... Họ xúm xít chung quanh tôi, xinh đẹp, hồn nhiên và đặc biệt lả không cô gái nào biết đến đấu tranh giai cấp, cũng không để tâm đến mâu thuẫn địa chủ, nông dân. Những cô gái ấy đưa đến cho trái tim thường lạnh cóng của tôi cái ấm áp, nồng nàn của tuổi trẻ. Dạo ấy, trong những giấc ngủ thường là chập chờn của tôi có thêm những giấc mơ dịu ngọt. Nhưng những nồng nàn, dịu ngọt ấy chỉ kéo dài hơn một năm. Các lớp học Bổ túc văn hóa tan vì không còn học sinh. Người thì lấy chồng, người đi TNXP, người vào công nhân quốc phòng tham gia chiến đấu, bảo đảm giao thông ở Ngã ba Đồng Lộc.
Đang “thất nghiệp” thì ông Nguyễn Văn Ngoạn, Chủ nhiệm Hợp tác xã Gạch ngói bảo tôi sang làm với ông. Thời còn Ủy ban hành chính kháng chiến xã Bạt Trạc, ông và cha tôi làm việc với nhau, nên ông thương tôi, coi tôi như con. Ngoài nhồi đất, đóng gạch, chuyển gạch vào lò, ra lò, tôi thêm việc ghi công lao động của xã viên. (Sau này trong bản lý lịch của tôi ở mục chức vụ công tác có thêm dòng: Kế toán hợp tác xã Thủ công nghiệp là vì thế). Được bốn tháng thì Hợp tác xã Gạch ngói nhập vào Hợp tác xã sản xuất nông nghiệp.
Tôi lại về với vị trí nông dân của mình. Công việc Hợp tác xã nông nghiệp chỉ bận bịu mùa cấy, mùa gặt, còn thì cứ ăn thật, làm giả. Thế nên ruộng đất không nuôi nổi người. Nhà mỗi mẹ và tôi làm công ghi điểm, một mùa 6 tháng được chia 50 đến 60 kg lúa không đủ cho cái ăn hàng ngày. Mùa gặt, mẹ tôi phải ra đồng “mót” lúa. Mẹ kẹp con dao nhỏ giữa ngón trỏ và ngón tay giữa ngắt những bông lúa, thường là nhỏ xíu, người đi gặt trước đó để sót lại trên ngọn toóc. Có khi mẹ dùng cục đất sét như quả bưởi chấm vào những hạt lúa rơi rụng trên bờ ruộng cho lúa dính vào, rồi về nhà đập vỡ đất đãi lấy lúa. Ngoài “mót” lúa ngoài đồng thì “mót” lúa trong rơm tại sân kho Hợp tác xã. Lúa gặt ở đồng Cựa, đồng Sau đều được chuyển về kho. Cứ hai ngày đội phân công những xã viên khỏe mạnh trục một lần. Quá chiều thì rũ nhã. Rơm xêu thành từng đống, bao nhiêu hộ trong đội sản xuất thì bấy nhiêu đống. Sau tiếng kẻng, từ các lối ngõ trong làng người vừa đi, vừa chạy ra sân kho, chọn cho mình đống rơm to nhất với niềm tin rơm nơi ấy sẽ dính nhiều hạt lúa. Rồi rũ rơm. Người may mắn thu về hai, ba kí lô. Quả là “hạt lúa là hạt vàng”.
Mẹ tôi tằn tiện từ bữa cơm hàng ngày đến lễ tết, giỗ chạp. Bữa nào tôi đánh bắt được cá, đơm bẩy được chim thì mâm cơm hai mẹ con có thịt chim nấu khế, có cá kho nghệ thêm quả cà, hoặc rau khoai luộc. Giỗ thầy tháng Tám có xôi trắng, gà luộc, Tết Nguyên Đán có bánh ngào, thịt mỡ; chỉ thế…Rồi cũng qua ngày đoạn tháng. Nhưng đức tính tằn tiện trở thành tính cách của mẹ.
(Sau này khi tôi và các anh tôi có tiền chu cấp cho mẹ, mẹ vẫn ăn uống đạm bạc, vẫn giản dị váy nâu, áo vá. Đến thuốc thang cho cơn bệnh đau dạ dày mẹ cũng cân nhắc từng viên, từng lọ.)
3.
Hồi ở Thanh niên xung phong, anh Tấn được dùng một chiếc xe Phượng Hoàng để chạy chợ mua thực phẩm cho bếp ăn. Khi anh đi học trường Đại học Hằng Hải, anh được mang xe theo. Năm mất mùa gian nan tôi vừa kể ấy, anh gửi xe về cho tôi bảo, để tôi chạy công việc nhà và thuốc thang cho mẹ.
Việc đầu tiên, tôi lên Hương Sơn mua cau,, trầu, cam quýt về bán ở các chợ miền xuôi. Thường gà gáy lần thứ hai, tôi thức dậy, lặng lẽ đạp xe theo con đường liên huyện Can Lộc - Đức Thọ vắng vẻ và tĩnh lặng. Tưng mưng sáng thì đến ngã ba dưới chân núi Tùng Lĩnh, một ngả rẽ xuống cầu phao Linh Cảm, một ngả xuôi qua đò Ghềnh Tàng, từ đó qua sông đất Hương Sơn. Xe đạp khpoong có đăng ký, tôi chọn lối qua đò để tránh Trạm gác công an.
(Thuở ấy đủ thứ cấm đoán: Cấm đi xe đạp không có giấy đăng ký, cấm nấu rượu, cấm giết mổ lợn, cấm buôn bán gạo thóc, vải vóc, cấm hát nhạc vàng, cấm mặc quần ông loe, cấm để tóc dài…Trăm thứ cấm, sau này người ta bảo đấy là thời “ngăn sông cấm chợ”, thời các nhà lãnh đạo sợ đất nước chệch đường lối Xã hội chủ nghĩa sang chủ nghĩa Tư bản.)
Nhìn thấy sông Ngàn phố, chợt nhớ mấy năm trước, tôi và Lê Thành Nghị cũng theo đường này lên Hương Sơn luyện thi học sinh giỏi quốc gia. Nay thì chỉ mình tôi. Lê Thành Nghị đang học ở Liên Xô. Mỗi tôi… Nỗi buồn bỗng dòa lên…Tôi dụi mắt áp cằm vào ghi đông xe. Nửa buổi thì đến Chợ Rạp. Chợ nằm giữa xã Sơn Bằng, ở đây đủ các sản vật miền rừng, nhiều nhất là cau, trầu không, mít, cam quýt, mây giang…những thứ ở miền xuôi hiếm và dĩ nhiên giá cao hơn mấy lần. Tôi nhẩm tình và cũng “cò kè bớt một, thêm hai”, mãi gần trưa tôi mới buộc hai bì tải đựng cau, trầu không và buộc vào gacbaga ba quả cam bù dành cho mẹ. Xà vào quán bánh mướt tôi mua một đĩa và cúi đầu ăn. Xong, cắm cúi đạp xe theo đường xuôi. Quá chiều thì về đến nhà. Tối ấy, trong ánh đèn dầu chập chờn, mẹ và tôi cắt từng choẽn cau buộc thành chùm, mỗi chùm 10 quả, trầu không thì xếp 5 lá thành một liếp, xong xếp cẩn thận vào hai cái sảo tre. Sáng ra mẹ ra chợ Nhe, trải mảnh ni lông mang theo từ nhà xuống mảnh đất còn trống bên lối ra, vào chợ, rồi bày cau, trầu lên đó, mời người mua. Hàng mẹ hết sớm. Mẹ bảo, bán rẻ hơn người khác, lấy lãi ít thì được tình nhiều, lần sau họ lại sẽ tìm đến mình. Lần sau mẹ nói ấy cũng phải dăm bảy ngày sau; phần thì phải theo ngày Chợ họp, phần thì tôi không đủ sức ngày nào cũng đạp xe hàng trăm cây số.
Thời gian trong khoảng dăm bảy ngày ấy, tôi cùng mấy ông trung niên trong làng kéo xe ba gác, đi bộ 30 cây số lên tận xưởng gò, hàn tôn, kẽm Đức Sơn, Đức Thọ thồ thùng tôn về cho cửa hàng Công nghệ phẩm ở ngay trong làng. Một chuyến thồ hàng như thế được trả 3 đồng tiền công, trừ 5 hào cho người có xe Ba gác còn 2 đồng rưỡi. (Những cái xe ba gác ấy nay ở làng quê không còn nữa, chỉ thấy người làm nghề vận chuyển hàng hóa dùng ở các phiên chợ Tỉnh ngoài Thành phố).
Nhiều bữa tôi ra xóm Chợ xuống thuyền anh Trần Văn Quang. Anh Quang, người Thiên chúa giáo, cùng tuổi Kỷ Sửu với tôi, làm nghề vận tải sông. Chiếc thuyền của anh trọng tải trên hai tấn, lặng gió thì chèo chống, gió nổi thì căng buồm. Tôi và anh rong ruỗi dọc sông sông Nhe, “trên trời, dưới nước”, xuống sông Nghèn, vào sông Hà Hoàng xuống các làng Thạch Bằng, Thạch Kim ven biển mua hàng chục thùng nước mắm, ruốc, cá khô, moi khô… chở về Chợ Nhe nhập cho các bà bán buôn. Cuối ngày, Quang chia lãi cho tôi; không còn nhớ tôi được bao nhiêu đồng cho một chuyến sông nước ấy nữa.
Ngày mưa gió hoặc không có việc, tôi ra cái quán tranh xập xệ trước cổng chợ cùng mấy anh công nhân Công ty Cơ khí Thủy lợi, vừa sửa chữa xe đạp cho khách qua đường, vừa “hát trộm nhạc vàng”. Lần đầu tiên tôi gặp “Đồi thông hai mộ” của Nhất Linh và “ Nửa chừng xuân” của Khái Hưng chép tay bằng bút mực tím trên giấy kẻ ô vuông và bập bùng ghi ta ca khúc “Cho vừa lòng em”, “Khu phố ngày xưa” “Hương tình cũ”…
(50 năm qua, tôi không gặp lại những anh công nhân vui tính, thân tình nọ, nhưng vẫn còn nguyên trong tôi hình ảnh những con chữ trên những trang giấy sâm sẫm. Ngoài những chuyến chở nước mắm rong ruỗi trên sông nước, những buổi hát hò, gẩy đan guita, đọc sách nơi quán lá trước cổng chợ, còn thì tôi vẫn cứ chìm trong tâm trạng nặng nề, bí bách.)
Tâm trạng ấy dằng xé trong nhân vật tôi ở Tiểu thuyết Đồi Nghì tôi viết sau này: “Đêm ấy con ngủ trên thuyền. Chừng nửa đêm, hơi nước lùng nhùng, gió nóng mang theo mùi đá và cả mùi bùn lăn trên làn da mặt. Sạp thuyền đầy gai nhọn. Hai cánh tay con cứng đơ. Khắp nơi mù mịt sương khói và những ngọn lửa hừng hực nóng. Nước sông Nhe sôi sùng sục. Con thuyền dựng ngược lên, oằn oại, kêu răng rắc. Bỗng con bật lên khỏi thuyền bay vào sương khói. Con chới với rồi rơi xuống một hố sâu vô tận…Ai đó bảo con:“Vịn vào tay ta. Nào ta sẽ đi đến nơi ấy.” Con vịn tay vào khoảng không, cảm thấy mình đang bay vù vù vào sương khói mù mịt. Con thấy những mái nhà, những ngọn cây vật vờ trên hổn độn gạch đá và rêu bám xanh lè trên đỉnh đồi Nghì. Gà sắp gáy rồi, ta phải về. Con nhận ra đấy là tiếng nói của cha. Thoắt cái, tay con rời khỏi khoảng không, đập mạnh xuống sạp gỗ. Con choàng tỉnh. Con nhìn quanh quất. Đêm ướt át và gió thì lạnh lẽo. Tiếng rì rầm trôi trên mặt nước, mất hút về phía đồi Nghì. Con sẽ đi cha ạ. Chưa biết là đi đâu, nhưng con sẽ đi. Làng Nghì và cả đồi Nghì không còn gì để níu giữ con ngoài những kỷ niệm đau thương. Thì con mang nó, những kỷ niệm ấy theo chừng nào còn đủ sức mang nó. Con sẽ bỏ làng đi theo một đơn vị bộ đội, hay Thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến nào đó để vào thẳng chiến trường, nhất “xanh cỏ, nhì đỏ ngực”. Đêm nào bầu trời cũng bị rách nát bởi tiếng máy bay, tiếng bom đạn chát chúa và những luống sáng trắng lóa của pháo sáng, còn mặt đất thì cứ âm âm, rung lên từng đợt như sẽ không bao giờ dứt. Trên đường số I bên kia đồi Nghì, người và xe chở tên lửa, chở pháo nối nhau vào Nam. Nếu con lẫn vào họ, chắc không ai thấy, mà có thấy cũng không ai nỡ đuổi người đang cùng họ đi về phía bom đạn. Ở cái nơi sống chết cách nhau gang tấc, người ta còn tâm trí đâu để soi mói thành phần giai cấp của người bên cạnh mình. Nhưng ý định của con vỡ lở. Cơn sốt rét quật ngã con, dán con xuống sạp thuyền. Trận ốm kéo dài gần hàng tháng trời. Con đã không uống thuốc. Con nhớ là cha, mẹ Ngấn từng bị ốm và chưa từng có ai uống thuốc. Mụ Khế, người đàn bà giúp con bán cá tôm con đánh bắt dưới sông Nhe và mua đồ ăn, thức uống cho con đã lên đồi Nghì ngắt lá nấu cho con một nồi nước xông. Cái mùi hương nồng gắt của lá cây trên đồi Nghì đã dựng con dậy…
Cuốn tiểu thuyết Đồi Nghì đến nay vẫn đang là những trang giấy chi chít chữ viết tay. Mấy lần giở ra rồi khép lại và chắc rồi cũng dừng lại đó.
Một hôm mẹ tôi nói: “Phải đi khỏi làng, con trai ạ. Tìm việc chi ở đâu đó mà làm…”Tôi hiểu, mẹ tôi muốn tôi thoát khỏi những lũy tre làng, khỏi cuộc sống tù túng, đơn điệu, những giằng dịt quan hệ giai cấp đang được chính quyền địa phương bám víu dai dẳng. Sự trải nghiệm 53 năm của cuộc đời dâu bể đã cho mẹ tôi một nguồn tri thức đạo đức để hiểu điều gì là tốt, điều gì là xấu trong những hoàn cảnh, thời thế bà đang sống. Một năm sau đó tôi được các ông lãnh đạo xã cho đi Thanh niên xung phong.
V. Ở THANH NIÊN XUNG PHONG
1. Ngày 20-10- 1972, tôi có giấy gọi đi Thanh niên xung phong. Đêm trước bữa tôi đi nhiều người trong làng đến nhà chia tay tôi; trong đó có người đã từng hai lần tiễn chân tôi đi bộ đội. Lần thứ nhất, sau Tết âm lịch năm 1967; lần thứ hai, năm 1970. Cả hai lần đến Huyện đội, nơi bàn giao tân binh, tôi bị đơn vị nhận quân trả lại địa phương. Một mình lủi thủi về làng với một nỗi buồn não nề không nói được bằng lời. Mẹ tôi chắc buồn hơn cả con trai mẹ. Mẹ an ủi tôi bằng im lặng và cái nhìn của đôi mắt rưng rưng. Bữa cơm hôm tôi “đi bộ đội về” mẹ soạn “ sang” hơn. Cơm không độn khoai khô, dù tôi không đánh bắt được cá, hoặc bẫy được chim như ngày thường, nhưng vẫn có một đĩa cá diếc kho khế, một đĩa thịt lợn kho mật và rau khoai luộc. Tất cả đặt trên mươn tre, hai mẹ con ngồi hai bên. Ngọn đèn dầu hỏa lắt lay vì gió lùa qua khe cửa. Mẹ ăn chậm, chốc chốc gắp thức ăn bỏ vào đọi cơm của tôi, việc chưa khi nào mẹ làm, còn thì cứ cắm đũa nhìn tôi và kể chuyện trong làng, ngoài xã. Mẹ thấu hiểu nỗi lòng tôi, nhưng không nói lời an ủi mà chỉ muốn tôi quên đi, quên đi cái sự thật cay đắng tôi đang chịu đựng…
Lần này đi Thanh niên xung phong, chắc không bị trả về như hai lần đi bộ đội. Không chỉ tôi mà dân làng cũng có niềm tin ấy. Người ta bắt tay tôi, vỗ vai tôi, dặn dò tôi, nói những lời chúc tốt lành.
Mờ sáng, tôi đạp xe, vẫn cái xe cao ngồng của anh Tấn cho, theo đường vào Ngã ba Đồng Lộc để từ đó xuôi theo tỉnh lộ 22 xuống Thạch Minh, sang Thạch Vịnh, chỗ hội quân. Tôi muốn nhìn lại cái Ngã ba vừa trải qua tám năm bom đạn, cũng muốn vào đập Ô Đước, chỗ tôi suýt chết vì bom bi hồi đi thực tế viết tiết mục văn nghệ cho Phòng văn hóa huyện, nhưng nhìn bầu trời xanh ngắt đằng Tây đang thẫm màu dần, sợ muộn giờ tôi đi nhanh qua Ngã ba. Hai bên đường hố bom chen hố bom và xơ xác, vàng ệch cỏ cây trộn đất đá. Bao chiến sỹ Thanh niên xung phong, bộ đội, công an, công nhân quốc phồng, công nhân Giao thông vận tải…đã hy sinh trên vùng đất 6 km2 này. Tôi nghĩ, bỗng thấy cay cay khóe mắt.
Từ đầu cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, Hà Tĩnh có 3 đại đội TNXP làm nhiệm vụ tại khu vực Vĩnh Linh giáp ranh vĩ tuyến 17. Tháng 6/1965, thành lập 2 đội Nam Hà và Bắc Hà gồm 20 đại đội để chi viện cho Bình - Trị - Thiên và đường 9 Nam Lào. Ngoài ra, còn có 2 đội N.23 và N.25 gồm TNXP Hà Tĩnh và các tỉnh làm nhiệm vụ trên đường mòn Hồ Chí Minh và mở đường 20 Quyết Thắng. Đến tháng 7/1965, tiếp tục thành lập 2 tổng đội N.53 - P18 và N.55 - P18. Đội N,55 - P18 chủ yếu làm nhiệm vụ trên tuyến đường 1A suốt từ Bến Thủy đến Đèo Ngang. Đến ngày 20/4/1968, khi đoạn đường Thượng Gia - Cổ Ngựa bị đánh đứt, cắt ngăn hoàn toàn việc vận chuyển trên tuyến quốc lộ 1A thì toàn bộ lực lượng N.55- P18 được điều về bám trụ Ngã ba Đồng Lộc và các tuyến đường 15A, từ Lạc Thiện qua cầu Bạng - Tùng Cóc - Cầu Tối - Ngã ba Đồng Lộc - Khe Giao - Địa Lợi - Lộc Yên - La Khê - Tân Đức tiếp giáp Quảng Bình. Đội N53 - P18 là đơn vị chủ công mở đường 21 từ Khe Giao qua ngã ba Thình Thình dọc theo hữu ngạn sông Ngàn Sâu vào Tân Ấp, Quảng Bình và đến cuối năm 1966, tiếp tục mở đường 22 từ ngã ba Thình Thình men theo phía Tây sông Rào Cái vào Cẩm Mỹ, Kỳ Thượng - Kỳ Lạc đến Quảng Bình. Đến năm 1971, Đội TNXP N.40 - P18 gồm 8 đại đội được thành lập, vừa làm công sự bảo vệ các cơ quan của tỉnh và các công trình kinh tế. Tháng 10- 1972, thành lập N,299.P18. N299.P18 gồm một số cán bộ, chiến sỹ từ 55.P18 và 53.P18 chuyển sang và thêm 700 thanh niên mới tuyển từ 8 huyện, thị trong tỉnh làm nhiệm vụ bốc dỡ, vận chuyển, giải phóng hàng hóa bảo đảm giao thông tại các cảng biển, cảng sông, bến tàu và di tu bảo dưỡng đường.
Tôi đến Tổng đội 299.P18 lúc quá chiều. Bấy giờ Tổng đội đóng trong một ngôi làng xum xuê cây cối dưới chân một ngọn đồi trọc. Từ Tổng đội trưởng Phạm Bá Sờng đến anh em chiến sỹ đều ở trong nhà dân. Những ngôi nhà tre lợp tranh tro, thâm thấp, lặng lẽ và có vẻ nín nhịn ngoảnh mặt ra đường làng đầy lá rụng. Tôi gặp một cô gái thon thả, khuôn mặt xinh đẹp dẫn vào một ngôi nhà như thế và nói, anh ở đây, có cần chi thì sang bên tê đường vô cái nhà có cái cổng tre ấy hỏi Phạm Thị Mỹ Đào nhé. Nói xong, đi ngay. Chủ nhà là một người đàn bà trạc tuổi mẹ tôi. Suốt đêm ấy tôi hầu như không ngủ. Mờ sáng cô Đào xuất hiện, dẫn tôi sang bếp ăn tập thể dành cho cán bộ văn phòng Tổng đội. Bếp ăn y hệt cái kho Hợp tác xã ở làng tôi, cao và rộng rênh. Suất ăn sáng là một cái bánh mì luộc bằng nửa quả bưởi và trắng lạ lùng.
Nửa buổi, Đào bảo tôi lên gặp Thủ trưởng Phạm Bá Sờng. Trong chiến tranh chống Mỹ ông là Tổng đội phó Tổng đội 55, anh Tấn của tôi là nhân viên phòng Kế hoạch. Tôi đưa lá thư của anh Tấn cho ông, nội dung là nhờ ông quan tâm, giúp đỡ tôi. Chắc khi viết bức thư ấy ông anh tôi không nghĩ đến “ nhất thân, nhì thế…” như trong công tác tổ chức cán bộ sau này. Tuy vậy, nhờ thư anh Tấn, tôi được biên chế vào phòng Thi đua -Tuyên truyền. Trưởng phòng là anh Hoàng Đình Túc, nguyên là thầy giáo dạy bổ túc văn hóa ở Tổng đội 55. P.18. Anh Túc bảo tôi, mới sinh (ý nói Tổng đội mới thành lập) chưa có việc gì để làm đâu, nghỉ ngơi thoải mái. Mai kia xây dựng xong cơ ngơi dưới Thạch Long, tôi sẽ giao việc cho chú. Mấy cuốn sách mang theo đọc đến lần thứ hai. Cô Đào ở phòng Hành chính mang đến cho tôi cuốn Thép đã tôi thế đấy và nói, anh đọc đi, hay đấy. Đọc xong sang chỗ em tự chọn quyển khác. Còn nhiều. Đào quê làng Thịnh Văn, Sơn Thịnh, Hương Sơn, học chuyên văn tỉnh, tốt nghiệp lớp mười nhưng không hiểu sao không vào Đại học mà đi TNXP. Tôi hỏi, Đào đáp: “Số phận”.
Đầu năm 1973, Văn phòng Tổng đội chuyển xuống xã Thạch Long, cách đường số Q.L1 bốn trăm mét, cách cảng Đò Điệm chừng bảy trăm mét. Mấy ngả đường vào Tổng đội đều bị hư hỏng khủng khiếp qua tám năm chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ. Năm trong số bảy đại đội của Tổng đội làm nhiệm vụ san lấp ổ voi, ổ gà, xếp đá, rải nhựa đường ngót nghét một trăm kilômét đường nhựa. Tổng đội trưởng Phạm Bá Sờng trực tiếp chỉ huy xây dựng cơ quan tổng đội. Năm dãy nhà: Hành chính, Kế hoạch-Tài vụ, Thi đua - Tuyên truyền và bếp ăn tập thể, ngoảnh mặt vào Hội trường. Trước Hội trường có cái hồ bán nguyệt, bờ hồ lát đá đen, bao quanh hồ chen chúc hoa: hoa mào gà màu đỏ sẫm, hoa thược dược vàng, hoa hồng đỏ. Giữa vườn hoa cao vút cái cột cờ làm bằng ống sắt sơn trắng. Ngoài năm dãy nhà làm việc của các ban, phòng nói trên, rải rác không biết bao nhiêu là nhà, thảy đều thấp và nhỏ: Nhà để xe ôtô, nhà để xe đạp, nhà kho, nhà bếp, nhà chơi bóng bàn, nhà tắm, nhà vệ sinh... Số đông cán bộ chiến sỹ Văn phòng Tổng đội là thanh niên trẻ, vui vẻ, ngày đêm rôn rã tiếng cười, tiếng hát. Do bản tính trầm lặng, hay suy tư - sản phẩm của một thời bị “phong tỏa” ở làng, tôi thường tách khỏi đám đông, vùi đầu vào sách, báo hoặc ghi nhật ký.
Trích nhật ký:
Ngày 28 - 2 – 1973:
Cả buổi chiều anh chị em cán bộ, chiến sỹ chen vai nhau ngồi trong hội trường nghe anh Túc nói chuyện thời sự. Anh nói, miền Bắc đã qua chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, nhưng ở miền Nam chiến sự trên nhiều chiến trường đang ngày càng ác liệt. Nhiệm vụ miền Bắc hậu phương chi viện cho miền Nam hết sức nặng nề. Hà Tĩnh ta trở thành chân hàng của chiến trường. Vì thế Giao thông, vận tải, trong đó có 299.P18 chúng ta phải tập trung mọi nguồn lực thực hiện Nghị quyết của Tỉnh ủy. Tỉnh ủy bảo thế nào các đồng biết không? Dưới hội trường nhao nhao, nỏ, nỏ biết mô. Anh Túc khua tay nói tiếp, tỉnh bảo: Chuyển tinh thần chịu đựng gian khổ trong kháng chiến chống Mỹ sang phát triển kinh tế ”và “Tất cả cho giải phóng miền Nam”.
Quán triệt chủ trương chuyển hướng hoạt động từ thời chiến sang thời bình của tỉnh, ngành Giao thông vận tải dồn sức xây dựng cơ sở vật chất để đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ mới. Các đơn vị giao thông tập trung nâng cấp, uốn tuyến Quốc lộ I, Quốc Lộ 8, Quốc lộ 15. Lực lượng TNXP mà chủ chốt là Tổng đội 299.P18 được điều động nâng cấp và mở rộng Quốc lộ I đoạn Gia Lách – Cầu Treo dài 18 km để tránh ngập lũ mùa mưa; nâng cao đoạn Ngã ba Bãi Vọt - Thượng Nga – Cổ Ngựa và đoạn Thạch Bình phía Nam Cầu Phủ. Trên Quốc lộ 15 thì chuyển tuyến Địa Lợi lên Lộc Yên đi qua Thị trấn Hương Khê nối với các đường khác của Hương Bình, Hương Hải tạo thành một hệ thống giao thông bộ nhằm phát triển kinh tế vùng núi Hương Khê. Quốc lộ 8 thì mở rộng đoạn Khe Nưa về Khe Nước Sốt, nâng cao đoạn Sơn Diệm qua ghềnh Kẻ Tàng về ngã tư Chợ Trổ. Cũng giai đoạn này một số tuyến đường mới được hình thành: Đường nối đương Quốc lộ 8 vào Ga Đức Lạc, lên Vũ Quang, đường từ Cầu treo Nầm vào Sơn Ninh, sơn Hòa, Sơn Lệ, Đường Phố Châu vào Sơn Thọ, đường Đại Lộc lên Quang Lộc…
Anh Túc bảo tôi đi với anh về các Đại đội, trước làm quen với lãnh đạo Đại đội, sau thì kiểm tra công việc. Tổng đội có 7 Đại đội. Mỗi đại đội đóng quân ở một nơi tùy theo nhiệm vụ phải thực hiện. Ví như Đại đội 7 đóng ở Thạch Sơn cạnh Cảng Đò Điệm để xây dựng Cảng. Đại đội 4 đóng ở Thạch Liên để sửa chữa đoạn QL 1 từ Cầu Già vào Ngã Ba Giang. Đại đội 1, đóng mãi trong Kỳ Anh làm nhiệm vụ khôi phục đường Kỳ Nam- Đèo ngang. Hôm ấy tôi và anh Túc đến đại đội I.
Đường Quốc lộ I vào Kỳ Anh lở lói, đây đó gặp những hố bom đủ hình dạng, những cây xà cừ trụi lá, chơ vơ. Đang nửa buổi sáng, anh chị em TNXP, trùm khăn che mặt, chân đi ủng đen, xếp đá hộc, rải đá giăm. Bên lề đường bếp nấu nhựa đường lửa cháy rừng rực, nhựa sôi sùng sục trong thùng phi, khói đen dựng cuộn lên trời. Không khí như đông đặc lại, khét lẹt. Tôi và anh Túc dắt xe bước trấy trật trên đá hộc, đã giăm, trong khói nhựa đường. Cùng chiều với chúng tôi những đoàn xe tải nối đuôi nhau chạy về phía Nam.
Khuya, chúng tôi mới về đến sân Tổng đội. Tôi thấy Đào đứng cạnh cửa sổ trong phòng Hành chính nhìn ra. Một cái nhìn nhìn thân thiết của một đôi mắt lóng lánh. Hồi tôi đi dạy học BTVH cũng đã gặp những cái nhìn của nhiều cô gái học trò như thế…Mẹ của một cô gái nói với mẹ tôi, nếu thầy muốn nó, tôi cho không đấy. Khát vọng ra khỏi làng, làm nên cái gì đó đã khiến tôi từ chối tình cảm của các cô gái ở làng…Đôi khi nhớ lại những ngày đi dạy học ấy, trong lòng cứ bồi hồi một cảm giác khó tả, như thương yêu, như tiếc nuối.
Trích nhật ký
Ngày 26-3- 1973
Kỷ niệm ngày bắn rơi 12 chiếc máy bay Mỹ tại núi Nài. Hàng chục năm nay mới có ngày lễ trọng trong không khí hòa bình. Trước năm dãy nhà Văn phòng Tổng đội đều treo cờ đỏ sao vàng. Một tấm băng rôn nền đỏ chữ trắng kéo dài suốt chiều ngang Hội trường:“Nhiệt liệt chào mừng Kỷ niệm TRận đầu thắng Mỹ 26-3-1965”. Cán bộ, chiến sỹ văn phòng Tổng đội được nghỉ việc từ nửa buổi sáng, tập trung lo bữa liên hoan tại bếp ăn tập thể. Được 2 phần 3 quân số tham dự, phần còn lại tranh thủ ngày nghỉ xin về thăm nhà.
Tôi đã từng ăn cơm tập thể. Mấy năm về trước, sau khi tốt nghiệp cấp ba làm anh xã viên Hợp tác xã, tôi đã cùng mẹ ăn cơm tập thể ngoài đồng. Mùa đông rét, cả đội sản xuất chừng hai ba chục người tập trung cấy lúa chiêm xuân. Trưa, rửa tay trong nước đục ngầu bùn, phủi đít ngồi bệt trên dăm cỏ chờ cơm. Thường là cơm trắng và mắm kho mật mía, muối xương sườn lợn, vừng đen giã nhỏ, cà muối, do một gia dình trong đội sản xuất lo liệu. Mọi thứ bày trên nống nia, không đủ nống nia thì trải lá chuối lên bãi cỏ….Nhưng bữa cơm tập thể hôm nay thì khác. Những người cùng mâm với tôi đều trẻ, thân thiện từ trong ánh mắt nhìn, trong lời nói…
Hôm sau, tôi dậy muộn. Vừa đánh răng rửa mặt xong đã thấy anh Túc đứng nơi cửa. Anh bảo, thủ trưởng quyết định thành lập đội Văn nghệ Tổng đội, trước để động viên phong trào lao động khôi phục vết thương chiến tranh, xây dựng cuộc sống mới, sau nữa để đón Hội diễn văn nghệ quần chúng của Ty Văn hóa -Thông tin tổ chức vào cuối năm. Chú là người phụ trách, gọi là Đội trưởng cũng được, việc đầu tiên chú xuống tận các Đại đội tuyển diễn viên, khoảng 26 đến ba chục người. Tôi sẽ làm quyết định điều động trình thủ trưởng ký. Buổi trưa, nhai trệu trạo cục bánh mỳ xong tôi cẩn thận bỏ cái giấy giới thiệu có chữ ký Thủ trưởng Sờng có cái dấu tròn đỏ chóe, đạp xe đi tìm diễn viên…
Suốt mấy ngày tôi ở cùng các đơn vị để tìm hiểu và chọn những chiến sỹ có năng khiếu văn nghệ. Phải 5 ngày sau tôi mới có trong tay một danh sách các diễn viễn. Lại 5 ngày sau nữa, Thủ trưởng Sờng gọi tôi lên phòng bảo, đã có quyết định điều động 25 chiến sỹ, 10 nam, 15 nữ. Và nói thêm, anh chỉ huy tập tành cho tốt vào. Cho nghỉ hẳn lao động, 100% thời gian dành cho văn nghệ. Không làm ra hồn thì giải tán. Tôi không dọa đâu. Kỷ luật TNXP thời bình cũng như thời chiến. Tôi chỉ biết im lặng gật đầu, trong lòng thoáng chút lo lắng.
Đấy là thời gian phong trào văn nghệ chuyên và không chuyên phát triển mạnh. Truyền thống “Tiếng hát át tiếng bom” trong chiến tranh chống Mỹ được phát huy khắp nơi. Ty Thông tin mở trại sáng tác ca khúc, kịch bản, dân ca ví giặm, các lớp đào tạo đạo diễn, diễn viên ngắn ngày…Tôi đề xuất với anh Túc cho 12 diễn viên đi học tại Trường Văn hóa nghệ thuật tỉnh ở Thạch Tân, huyện Thạch Hà. Số còn lại tập hát những bài hát quen thuộc với nhiều người như Chào em cô gái Lam Hồng, Hồ Chí Minh –đẹp nhất tên Người, Hà Tĩnh quê hương tôi… và học các làn điệu dân ca ví giặm… tại Hội trường Tổng đội.
Thời gian ấy, tôi có thơ và truyện ngắn in trên Báo và nhiều kịch ngắn, hoạt cảnh dân ca dàn dựng cho đội văn nghệ Tổng đội. Hội văn nghệ Hà Tĩnh mời tôi dự Hội nghị văn học viết về đề tài chiến tranh cách mạng. Đấy là lần đầu tiên tôi gặp gỡ, hòa nhập vào không khí gần gũi, thân thiện của các nhà văn, nhà thơ Hà Tĩnh mà trước đó chỉ đọc tác phẩm của họ với sự ngưỡng mộ của kẻ mới chạm ngõ văn chương: Thanh Minh, Vũ Hoàng, Quốc Anh, Chính Tâm, Trần Huy Quang, Nguyễn Trọng Taọ, Lê Trần Sửu, Lê Nghi, Vũ Duy Thông, Hà Quảng, Lê Nghi, Phan Duy Đồng, Nguyễn Khác Thuần, Tùng Bách, Kịch tác gia Phan Lương Hảo, Thế Kỷ, Họa sỹ Phạm Lê Khang, Từ Thành…
2.
Sau mấy ngày nghỉ Tết (Quý Sưủ 1973), tôi rời nhà đạp xe trở lại Tổng đội. Lại theo Quốc lộ 1, lại cùng chiều với những đoàn xe chạy về phía Nam. Ở các ngã ba giao nhau giữa đường số I với đường liên huyện, Ngã ba Nghèn, Ngã ba Ba Giang, ngã ba Thạch Long…gặp thêm các loại phương tiện ô tô, xe đạp, xe ba gác…chở bàn ghế, gường tủ của các cơ quan xí nghiệp, trạm trại từ nơi sơ tán trở về nơi ở trước chiến tranh.
Tôi đến Tổng đội lúc gần trưa.
Anh Túc cử tôi đi dự mít tinh kỷ niệm ngày Thành lập Đảng mồng 3-2 do tỉnh tổ chức tại nhà hát Thị xã. Người và xe và cờ và biểu ngữ và bụi. Từ khắp các ngả đường, người và xe cộ lũ lượt kéo về thị xã. Thị xã sau chiến tranh như đang quằn quại để lớn phình ra thật nhanh nhằm đón những người chiến thắng. Làn sóng người ập tới, dồn lại, cùng với làn sóng âm thanh luồn lách vào khắp các lối đi tỏa quanh phố xá. Sân vận động không còn một chỗ trống. Cánh cửa sắt phía đường phố chính rít ken két trên bản lề. Một tấm sắt phía trên khung cửa bị bật ra đập loảng xoảng vào bức tường đá. Không biết là bao nhiêu loa phóng thanh nằm đâu đó trên đầu đám đông liên tiếp gào thét “Trật tự! Trật tự!”. Những lời kêu khẩn thiết ấy trở nên lạc lõng. Người ta xô đẩy nhau, ngồi lên vai nhau, bám vào tường vây trèo lên, nhảy đại xuống những cái đầu lố nhố phía trong sân. Trên lễ đài, một tấm băng đỏ kéo dài gần hết cả chiều ngang sân vận động. Dưới tấm băng chữ trắng loáng thoáng không đọc nổi ấy, hai hàng người ngồi nghiêm trang, ngực người nào người nấy lấp lánh Huân chương. Đồng chí Bí thư Tỉnh ủy, người thấp chũn, tóc bạc trắng đến trước micơrô. Ông tuyên bố khai mạc lẽ Kỷ niệm. Cùng lúc với giọng nói khàn khàn, ấm áp của ông, bầu không khí im lặng trùm lên toàn thị xã. Song, chỉ một lát sau, làn sóng người lại bắt đầu chuyển động, lần này mạnh mẽ hơn. Tôi bị đám đông xô bật ra dệ đường. Và gặp Đào. Như tình cờ. Như có hẹn hò. Như sự sắp đặt của số phận. Chúng tôi lách qua giữa đám đông đến ngồi trên bãi cỏ bên bờ một hồ nước màu đen thẫm….
Hôm sau, nửa chiều, anh Túc đi vào phòng tôi. Anh nói, Thủ trưởng Sờng vừa ký quyết định đưa chú mày về đại đội 3. Người ta bảo chú xuất thân trong một gia đình địa chủ... phải lấy lao động chân tay rèn luyện đạo đức, cải tạo tư tưởng. Còn một lý do tế nhị, chú tự hiểu. Giọng anh bỗng ngắt đột ngột, vẻ mặt bối rối. Thôi, chuẩn bị đi. Sáng nay có xe đại đội 3 lên lấy mì hạt, theo xe đi đỡ vất vả. 25 anh chị em trong đội văn nghệ xe chở đi tối hôm qua rồi. Từ nay không còn quy chế 100 % thời gian hát hò múa may mà cứ phải 50 % thời gian tập tành, 50% thời gian trực tiếp làm đường. Đại đội 3 sẽ quản lý chú và đội văn nghệ. Tôi im lặng nghe anh Túc dài dòng một thôi một hồi, thấy chán nản vô cùng.
Chiếu ấy, tôi không theo ô tô tải của đại đội 3 mà đạp xe đạp lặng lẽ ra khỏi sân Tổng đội cho dù màn đêm đã buông xuống. Về khuya xóm làng, đồng điền, đồi trọc, rừng núi đều chìm trong bóng đêm đen mờ. Quanh tôi chỉ có tiếng bánh xe lăn lạo xạo trên đường đất sỏi và tiếng côn trùng bên dệ đường rỉ rả. Tôi đến đại đội 3 đúng lúc cái kẻng làm bằng vỏ bom treo lủng lẳng trước nhà Ban chỉ huy báo giờ ngủ. Hai dãy nhà hóa đá. Ngủ hoặc thức, mặc; có điều, anh cứ nằm im. Đêm nay khác, lệ thường đã bị phá. Dọc thềm người đi, kẻ lại lố nhố. Tiếng cười, nói ồn ã. Thấy tôi đến anh chị em trong đội văn nghệ ào ra sân đón: các cô con gái Trâm, An, Hiền, Loan, Dưỡng, Đường…các anh con trai Toàn, Thanh, Hòe, Hồng, Mậu, Lượng…Ríu rít cười, nói. Không một lời trách móc vì tôi mà họ bị vạ lây, phải xuống ở vùng cát khô, cỏ cháy giáp rừng rú này.
Đại đội 3 vừa dựng được hai dãy nhà, đủ chứa một cách chật chội năm chục người, còn bốn chục người nữa ở trong nhà dân. Nhà lợp tranh săng, thưng phên nứa, cột kèo làm bằng những cây gỗ mỡ non oẹt. Chẳng hiểu sao người ta lại chọn một bãi cát trơ trọi làm doanh trại, khi chung quanh trải dài những sườn đồi thoai thoải,những bãi đất bằng phẳng mọc rặt cây chạc chìu và cỏ. Con đường 23 nối Thị xã Hà Tĩnh lên huyện miền núi Hương Khê đến chốn này nó đột ngột leo qua một ngọn đồi trước khi biến mất vào núi rừng Khe Giao. Cái dốc đẫn lên đỉnh đồi ấy có tên gọi Dốc Anh Quỳnh. Chuyện kể, Anh Quỳnh là tên một người nổi tiếng giàu có, tòa ngang dãy dọc tọa lạc cả vùng đồi núi phía Tây huyện Thạch Hà. Con gái Anh Quỳnh lấy con trai Bát Xu một địa chủ giàu ruộng đất nhất xứ Nghệ ở Can Lộc. Trước khi cưới Anh Quỳnh thách Bát Xu trải được chiếu hoa từ Nhân Lộc vào Thạch Vĩnh (chí ít cũng gần trăm cây số) thì cho đón dâu. Bát Xu tiếc của đã không nhận thách cưới ấy. Chuyện trên cách đây nửa thế kỷ hư thực thế nào không rõ. Cả cơ ngơi Anh Quỳnh cũng không còn dấu tích. Chỉ thấy bốn phía cát trắng xóa, hun hút.
Thường vào buổi trưa tròn bóng, gió nổi, cát bay mịt mù. Hai dãy nhà bị cát xô nghiêng hẳn về phía Đông. Ngày hôm sau, toàn đại đội không trừ một ai kể cả diễn viên Đội văn nghệ của tôi đều vào rừng khai thác gỗ, nứa, mây, giang để xây dựng thêm lán trại. Đi bộ qua dốc Anh Quỳnh, đến Truông Bát chúng tôi lội qua suối Đá rồi luồn sâu vào rừng rậm rịt cây cối, dây leo mãi trưa mới gặp một cánh rừng dổi. Người chặt gỗ làm cột, làm kèo, người lấy dây chạc chìu, mây tắt làm lạt buộc…Buổi trưa, buổi tối xúm xít ăn bánh mỳ mang theo và uống nước lấy từ con suối ngoài bìa rừng. Và đêm xuống…Anh chị em chiến sỹ chặt lá trải thành một vòng tròn rộng trên một khoảnh đất trống lơ thơ cỏ và địa y. Giữa bãi trống nhen một bếp lửa. Con gái, con trai nằm chen lẫn vào nhau. Nằm ngửa, tay đặt trên ngực. Mỗi người, ngoài suy nghĩ trong đầu, những cơn run nhè nhẹ trong lòng, đều hóa gốc cây, tảng đá. Những phép tắc ứng xử ra đời từ đâu đó, thời nào đó thành dư luận, thành các quy định trong văn bản và không văn bản, ngấm vào máu thịt bao thế hệ và chúng tôi. Hàng vạn thanh niên, thanh nữ trong kháng chiến chống Mỹ đã kiên gan một cách đau khổ đè nén ham muốn tình dục, để tránh bị kỷ luật…Đêm nay, tôi hiểu vì sao mấy chục thanh niên chưa chồng, chưa vợ nằm kề hông nhau hát những bài ca hào hùng về chiến tranh.
Vừa ổn định được nơi ở cho anh chị em diễn viên, chưa kịp tập tành gì thì Tổng đội trưởng Phan Bá Sờng lệnh tôi về Tổng đội. Đại đội trưởng Hòa nói, chú em chuẩn bị tinh thần trước, tao nghĩ chuyện Thủ trưởng gặp chú lành ít, dữ nhiều.
Ngay hôm ấy, tôi đạp xe về Tổng đội. Gần trưa, nắng chói gắt, mấy dãy nhà im lìm. Tôi không vào phòng Hành chính nơi đang vọng ra tiếng gõ máy chữ lóc cóc của Đào mà đi thẳng vào phòng Thủ trưởng Sờng.
Không khí trong phòng ngưng đọng, ngột ngạt. Ông Sờng đang ngồi trên cái ghế tựa, tay vịn nhô cổ cò, mặt ngửng nhìn những vòng khói thuốc lá lởn vởn trước mặt mình. Khoảng lặng yên và tiếng cốc! cốc! do ngón tay ông tạo ra làm tôi cảm thấy rờn rợn. Cuối cùng ông nói, tôi đưa anh về đơn vị là để anh có điều kiện phấn đấu. Nhưng…người ta báo với tôi hôm mít tinh trong Thị xã, anh và cô Đào tách khỏi đám đông kéo nhau ra ngồi nơi bờ hồ …rồi hôm anh từ Đại đội theo đường tắt đồng Quán Gạc xuống, cô Đào từ Tổng đội đi lên, gặp nhau giữ đồng không mông quạnh. Không hẹn hò, yêu đương tình ái thì là gì? Tôi đã nhắc bao nhiêu lần trước hàng trăm chiến sỹ là trong thời gian thực hiện nghĩa vụ Ba sẵn sàng không được yêu đương. Nếu thả lỏng cho yêu nhau thì làm sao ta chiến thắng giặc Mỹ.
Mục đích ông gọi tôi lên lần này nhằm chấm dứt quan hệ giữa tôi và Đào. Để làm gì thì tôi không biết nhưng chắc chắn là không phải để thắng giặc Mỹ. Tôi muốn hỏi ông ta rằng, tôi phải làm gì cho ông, nhưng không thốt thành lời. Trước những người như ông, tôi phải im lặng, ráng chịu, phải chờ đợi, phải lắng nghe và cuối cùng phải làm. Quá khứ đã luyện tạo cho tôi cách ứng xử nhẫn nhịn trước những dữ dằn, tàn nhẫn, độc ác, đã tạo nên trong tôi thói quen sợ hãi, mặc cảm về thân phận thấp bé của mình. Cuộc đời tôi được bao trùm một không khí hiện thực khắc nghiệt. Tôi là một sinh vật không bé nhỏ, không dốt nát, không ác độc, phải thường xuyên chống đỡ, né tránh cái thế lực vừa được biểu hiện ở những con người cụ thể, vừa vô hình, vô ảnh. Họ bóp chặt tôi bằng cái ác trong cái áo khoác bảo vệ Đảng, bảo vệ chuyên chính vô sản.
Tôi dán chặt lưng vào ghế, mồm miệng ráo hoảnh, nghẹt thở trong một nỗi chờ đợi căng thẳng. Ông nói tiếp, cả tổng đội tai tiếng vì anh. Anh bôi gio trát trấu vào mặt tôi. Tôi đọc tiết mục anh viết, tôi mừng. Tôi định cho anh chuyển về Hội văn nghệ tỉnh. Ở đó họ đang cần người. Vậy mà, anh làm hỏng hết. Gần đến ngày có quyết định giải thể TNXP chống Mỹ, tôi phải xử sự với anh thế nào đây?
Tôi không biết tôi ra khỏi phòng ông Sờng thế nào.
VI. NỢ VĂN CHƯƠNG
1.
Người đầu tiên đến Tổng đội N.299.P18 gặp Tổng đội trưởng Phạm Bá Sờng, xin tôi về Tỉnh đoàn là nhà thơ Duy Thảo. Duy Thảo từng ở binh chủng Phòng không, làm lính tiêu đồ viên, sau đó chuyển làm pháo thủ 57 ly từ số 6 đến số 1, rồi khẩu đội trưởng, trung đội trưởng, đại đội phó. Một thời gian dài ông cùng chiến đấu, sinh hoạt với những người đồng đội là nhà văn, nhà thơ như Đỗ Chu, Nguyễn Tri Huân, Nguyễn Khắc Trường, Dương Duy Ngữ…Năm 1972, Duy Thảo rời quân ngũ chuyển về Hà Tĩnh làm cán bộ Phòng tuyên huấn Tỉnh đoàn. Hồi làm sách “Từ Ngã ba này ta hát”, tôi đến giúp Duy Thảo đánh máy bản thảo. Lần này tôi đến để biết kết quả việc thương thuyết với ông Phạm Bá Sờng. Duy Thảo không nhìn tôi, nói gọn, việc của chú chưa xong. Đã trải nhiều thất vọng nay chèn thêm một thất vọng nữa, khiến nỗi buồn thân phận trong lòng càng trĩu nặng. Thời gian giải thể TNXP chống Mỹ cứu nước đến gần. Việc giải quyết chế độ cho những người hoàn thành nghĩa vụ “Ba sẵn sàng” từ tiểu đội, đại đội lên tổng đội, tiến hành một cách vội vã. Người chuyển ngành, người đi học, người về quê…Phạm Thị Mỹ Đào chuyển sang Bưu điện tỉnh. Cô đi khỏi Tổng đội không gặp tôi, không một lời chía tay nhau. Tôi nhận ra mối tình của chúng tôi đã tan vỡ, tan trong lặng lẽ, tan từ khi tôi rời Tổng đội cùng Đội văn nghệ xuống làm chiến sỹ ở Đại đội 3. Đội Văn nghệ ấy cũng đã tan trong lặng lẽ. Ngỡ như còn mỗi mình tôi trong dãy nhà xập xệ trên bãi cát trắng dưới chân dốc Anh Quỳnh. Nếu không được chuyển ngành, là về làng? Về với cảnh vật ấy, không khí ấy, những con người ấy…
Chừng hai tuần sau ngày Duy Thảo đến gặp ông Sờng, nhà văn Chính Tâm và nhà thơ Quốc Anh đến Ban chỉ huy Tổng đội 2199.P18. Ông Sờng hết lý do giữ tôi ở lại TNXP đã ghi ý kiến đồng ý vào công văn của Hội Văn nghệ. Tôi gần như là người cuối cùng rời khỏi 299. P18. Lãnh đạo Tổng đội, đại đội chuyển về Sở Giao thông - Vận tải, hàng trăm chiến sỹ, người vào học Bổ túc Công Nông, người vào Ban này, Sở nọ… Mỗi người mỗi ngả.
Trong túi áo ngực là quyết định thuyên chuyển của Ty Lao động Hà Tĩnh, sau lưng nhẹ bẫng cái ba lô đựng mấy bộ áo quần và đồ dùng cá nhân lặt vặt, tôi đạp xe tìm tới Hội Văn nghệ tỉnh.
…Khoảng cuối năm 1951, nhà thơ Hoàng Minh Châu, Trung Anh, nhạc sỹ Phan Thanh Nam vào Hà Tĩnh phối hợp với Ty thông tin tuyên truyền văn nghệ thành lập Phân hội văn nghệ Hà Tĩnh. Cuộc họp văn nghệ đầu tiên được tổ chức tại Đức Thọ gồm 200 đại biểu từ các tổ, nhóm văn nghệ xã, cơ quan xí nghiệp, trường học, quân đội…cùng một số nhân sỹ trí thức có duyên nợ với văn nghệ. Đại biểu cấp trên có nhà thơ Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Thanh Tịnh, Phùng Quán, Nguyễn Tiến Lãng. Phân hội văn nghệ Hà Tĩnh bầu một Ban chấp hành và bầu nhà văn Việt Thường làm Phân hội trưởng, Trần Hữu Thưởng và Hoàng Nguyên Kỳ làm Thường vụ. Các nhà văn, nhà thơ chủ chốt của phân hội, tên tuổi đã trở nên quen thuộc với bạn đọc: Xuân Tửu, Thanh Minh, Vũ Hoàng, Lê Tri Kỷ, Hoàng Nguyên Kỳ, Nguyễn Đăng Đơ… Họ đã tổ chức Ban vận động thành lập Hội sáng tác văn nghệ Hà Tĩnh. Tháng 1 năm 1969, Hội sáng tác văn nghệ Hà Tĩnh chính thức được thành lập trực thuộc Ty Thông tin Hà Tĩnh, do Thanh Minh làm Hội trưởng.Trong kháng chiến chống Mỹ, Hà Tĩnh quy tụ nhiều cây bút nổi tiếng: Nghiêm Đa Văn, Trần Quốc Anh giáo viên, Trần Huy Quang Nguyễn Trọng Tạo, quân đội, Vũ Duy Thông, Ngô Thực, Thông tấn xã Việt Nam, (về sau, những người này lần lượt rời Hà Tĩnh ra Thủ đô Hà Nội hoặc các tỉnh khác), Phan Lương Hảo, Phạm Lê Khang, Phan Thoan, Xuân Hoài, Lê Duy Phương, Lê Nghi, Phan Duy Đồng, Hà Quảng, Lê Trần Sửu, Chính Tâm, Quốc Anh, Hữu Lợi… Ấn phẩm đầu tiên của Hội văn nghệ Hà Tĩnh là tập san Sông La xuất bản tháng 8 năm 1970 in 1.500 bản; cỡ 13 x 19 cm; dày 92 trang; do Vũ Hoàng biên tập chính; Phạm Lê Khang vẽ bìa và trình bày, Ngô Đức Ký khắc gỗ. Ngoài tập san Sông La, Hội còn xuất bản Tập Truyện ký Dương Chí Uyển; Thơ chống Mỹ chọn lọc; Tập thơ văn Yêu Bác lòng ta trong sáng hơn, Tập văn xuôi Đất Trung tuyến...
Khi tôi về Hội văn nghệ Hà Tĩnh, tháng 7 năm 1984, Hội đã tách khỏi Ty Văn hóa- thông tin, có tài khoản, con dấu. Trụ sở là một ngôi nhà ba gian lợp tranh tro, thưng phên nứa lọt thỏm giữa tre và tro trong làng Thạch Linh. Bấy giờ, Văn phòng Hội gồm Nhà thơ Thanh Minh, Vũ Hoàng, làm Trưởng và Phó Hội. Chính Tâm từ Phòng văn hóa Can Lộc vào làm Thường trực, Nguyễn Quốc Anh rời mâm pháo thành Chánh văn phòng. Rồi Tùng Bách bên Ty Kiến trúc về, Xuân Hoài từ Giáo dục Cẩm Xuyên lên, Ngô Thực từ Thông tấn xã Việt Nam sang, Hữu Lợi ở Lâm trường khai thác rừng Hương Sơn xuống. Hàng ngày trong ngôi nhà nhỏ là Trụ sở Hội ấy, dù đang trong những ngày gian nan thời hậu chiến và bao cấp, vẫn ăm ắp tiếng đọc thơ của Quốc Anh, Tùng Bách, tiếng đàn viôlông của Chính Tâm, giọng kể chuyện trạng nhẩn nha của Thanh Minh. Khuya thì chỉ còn tôi và Tùng Bách ở lại cơ quan. Thanh Minh, Vũ Hoàng về nhà riêng trong Thị xã, Xuân Hoài vào Cẩm Xuyên, Chính Tâm về khu tập thể của cơ quan vợ là Công ty nhiếp ảnh, Hữu Lợi sang với vợ ở khu tập thể Xí nghiệp Dược. Quốc Anh ra nhà riêng ở Thị trấn Cày.
Từ hưởng chế độ phụ cấp TNXP 5 đồng/ tháng, nhận quân phục màu cỏ úa 2 bộ /năm tôi có tên trong sổ lương cán bộ công chức Hội sáng tác văn nghệ Hà Tĩnh cái bậc lương cuối cùng của cán bộ, viên chức: với 32 đồng/ tháng. Ngày đầu nhận lương, tôi rơm rớm nước mắt. Mừng vui vô cùng.
2.
Cuối năm 1975, Quốc hội Việt nam Dân chủ cộng hòa khóa V phê chuẩn hợp nhất tỉnh Hà Tĩnh và tình Nghệ An thành tỉnh Nghệ Tĩnh. Theo đó, Hội Văn nghệ Hà Tĩnh nhập với hội Văn nghệ Nghệ An thành Hội Văn nghệ Nghệ Tĩnh. Đầu tháng 1 - 1976, Hội Văn nghệ Hà Tĩnh thôi hoat động theo chức năng độc lập chuyển sang hoạt động thuộc sự lãnh đạo quản lý của Hội Văn nghệ Nghệ Tĩnh. Hội Văn nghệ Hà Tĩnh không bị xáo động gì nhiều. Nhà Thơ Thanh Minh bấy giờ vào tuổi 65, nghỉ hưu. Sáu người thành cán bộ Hội Văn nghệ Nghệ Tĩnh gồm: Thái Kim Đỉnh, Xuân Hoài, Phó tịch Hội, Chính Tâm, Ủy viên Thường vụ, Quốc Anh, Hữu Lợi, Ngô Thực, Tùng Bách và tôi.
Hồi ấy, cơ ngơi Hội Văn nghệ Nghệ Tĩnh là 6 dãy nhà gỗ lợp tranh mía vừa chuyển từ nơi sơ tán ở huyện Yên Thành về dựng trên một mảnh đất rộng chừng 8000 mét vuông bên hồ thành Vinh. Bấy giờ Văn phòng Hội gồm hai thế hệ nhà văn chống Pháp và chống Mỹ: Minh Huệ, Trần Hữu Thung Vũ Hoàng (Thái Kim Đỉnh) Xuân Hoài, Thạch Quỳ, Hồng Nhu, Bá Dũng, Đặng Văn ký, Ngô Thực, Chính Tâm, Cảnh Nguyên, Đào Phương, Quang Huy, Nguyễn Xuân Phầu, Hồ Hữu Nại, Tùng Bách, Tuyết Nga…. Toàn tỉnh Nghệ Tĩnh, từ Khe Nước Lạnh vào tận Đèo Ngang có 173 Hội viên thuộc nhiều chuyên ngành: Thơ: 62 người; văn xuôi: 26, kịch 25, nhạc 21, mỹ thuật và nhiếp ảnh: 14, văn nghệ dân gian và LLPB:9, đạo diễn, biên đạo và diễn viên: 16. Ban chấp hành Hội Văn nghệ Nghệ Tĩnh họp bầu Trần Hưũ Thung làm Hội trưởng, Minh Huệ, Thái Kim Đỉnh, Hội phó, Xuân Hoài, Tổng thư ký và một Ban Thường vụ gồm 11 người.
Cơ quan ngôn luận của Hội là Tạp chí Văn nghệ Nghệ Tĩnh, thay cho Tập san Sông La của Hội Văn nghệ Hà Tĩnh và tạp chí Văn nghệ Nghệ An. Số 1 in xong ngày ngày 3 tháng 10 năm 1976 với 1.500 bản; cỡ 19 x 27 với 90 trang. Tôi được phân công biên tập chuyên mục Văn học Thiếu nhi dưới sự “lãnh đạo” của nhà thơ Quang Huy. Văn xuôi thì Hồng Nhu, Bá Dũng, Đặng Văn Ký, Nguyễn Xuân Phầu…Thơ thì Thạch Quỳ, Cảnh Nguyên, Tuyết Nga, Mỹ thuật thì Đào Phương…Chịu trách nhiệm xuất bản số 1, số 2 là Trần Hữu Thung, từ số 3 trở đi là Xuân Hoài
Mấy chục cán bộ văn phòng Hội, người độc thân và người có cả gia đình đều ở trong những dãy nhà gỗ lợp tranh lá mía, bốn phía quanh nhà, trừ mảnh sân đất nhỏ và những lối đi con chạch là nhấp nhô những vồng khoai, sắn. Giữa rừng khoai sắn ấy, có cái bếp ăn tập thể do một người đàn bà cao ráo tên Thu nấu nướng. Đêm đêm mọi người thường tụ tập lúc ở phòng Trần Hữu Thung, lúc ở phòng Thạch Quỳ, uống rượu trắng nhắm lạc rang, ăn sắn luộc. Hàng ngày nhà này vẫn gọi nhà kia xin lửa, xin dầu đèn, vẫn biếu nhau bát canh, con cá. Không khí thật đầm ấm, vui vẻ, thuận hòa. Về sau, cái làng văn nghệ Xứ Nghệ ấy tan rã khi một số gia đình chuyển ra ở trong những căn hộ của khu nhà tầng Quang Trung do Cộng hòa Dân chủ Đức xây dựng.
Sau Hội nghị Ban chấp hành, các tổ chức của Hội đi vào ổn định: Chi bộ, Công đoàn, các Ban chuyên ngành. Tiếp đó, Ty Văn hóa và Hội tổ chức Hội nghị bàn sáng tác về đề tài nông nghiệp. Tham dự và phát biểu chỉ đạo có Bí thư tỉnh ủy Trương Kiện. Hội nghị kéo dài đến 4 ngày. Ngay hồi ấy và cả sau này, ngoài những lần học tâp Nghị quyết của Đảng, tôi chưa bao giờ dự một Hội nghị kéo dài 4 ngày. Sau Hội nghị ấy, Hội phân công một số anh em đi về các địa phương tham nhập thực tế nông thôn, nông nghiệp, số còn lại thành lập thành một đoàn đi thực tế xây dựng công trình Thủy lợi Kẻ Gỗ ở Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh.
Trích sổ tay ghi chép: Thời Pháp thuộc, năm 1934, nhà cầm quyền thuộc địa đã cho khảo sát để đắp đập vùng Kẻ Gỗ. Đến năm 1934 thì họ cho làm kênh chính, kênh phụ, rồi không biết vì sao mà dừng lại, có thông tin là do bị Nhật cản trở. Năm 1963, tỉnh Hà Tĩnh đặt vấn đề xây dựng đập Kẻ Gỗ sau đó lại dừng vì chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ. Mãi tháng 12 -1974, Chính phủ mới phê duyệt nhiệm vụ thiết kế hồ chứa nước Kẻ Gỗ với lưu vực 223 km2, trữ lượng 345 triệu m3. Từ tháng 2 -1975, khi nước nhà chưa thống nhất và chưa thành lập tỉnh Nghệ Tĩnh, công trường Kẻ Gỗ đã được thành lập và bắt đầu triển khai xây dựng. Tháng 6-1975, tỉnh Hà Tĩnh huy động 2.500 lao động thủ công làm kênh mương và đưa xe máy vào hoạt động trên khu vực đầu mối
Đấy là chuyến đi thực tế “hoành tráng” về số người và tác phẩm gặt hái được. Năm 1980, Hội xuất bản tập sách “ Người đi xây hồ kẻ gỗ”, gồm 60 bài thơ, 12 truyện ngắn, bút ký là tác phẩm được anh chị em viết sau chuyến đi thực tế ấy. Mấy năm sau, xuất hiện thêm Tiểu thuyết Quặng gốc của Lê Quý Kỳ.
Cùng với công trình Kẻ Gỗ, là việc phát triển kinh tế vùng sông Nghèn, việc đẩy mạnh, phát triển lực lượng sản xuất, mở rộng quy mô hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, thực hiện sản xuất lớn Xã hội chủ nghĩa, việc dời làng lên núi để mở rộng diện tích canh tác, quy hoạch lại khu dân cư. Ở huyện Quỳnh Lưu, chính quyền quyết định xóa bỏ làng cổ truyền, đốn bỏ vườn cây ăn trái, dời các hộ dân lên vùng núi để thổ cư thành ruộng lúa. Mô hình chính trị thì Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân đân làm chủ đi cùng mô hình kinh tế là chủ nghĩa tập thể. Nhiều miền quê Xứ Nghệ, người ta khắc lên trên các vách núi khẩu hiệu “Thay trời đổi đất, xếp đặt lại giang sơn” đi xa hàng cây số cũng nom thấy. Không khí náo nức sôi nổi khẩn trương bao trùm lên khắp nơi. Khí thế cách mạng đất Xô Viết thành khí thế sản xuất lớn Xã hội Chủ nghĩa trên đất Nghệ Tĩnh.Tôi đạp xe xuống Cửa Lò viết bút ký Cửa Lò mùa cúc biển về những người công nhân làm cảng Cửa Lò, sang Công ty 473 viết bút ký Sang phải về những người công nhân làm cầu Bến Thủy, rồi lên Con Cuông ở cùng những người đưa thư viết “Dưới những tán lá cây yên tĩnh”; vào nhà máy Gạch Thuận Lộc viết ký Trước mùa mưa, lên Hương Giang Hương Khê, vùng trông ngô của huyện miền núi viết Về lại Hương Giang.…Anh em trong văn phòng Hội tỏa tới các địa phương thâm nhập thực tế làm thủy lợi ở Cẩm Xuyên, Can Lộc, Quỳnh Lưu, Yên Thành, xây dựng thành phố Vinh, vách Bắc, vách Nam, tập trung đông nhất là ở Quỳnh lưu, huyện thí điểm “sản xuất lớn Xã hội Chủ nghĩa”. Bạn đọc được đọc những tác phẩm của Trần Hữu Thung, Minh Huệ, Xuân Hoài, Hồng Nhu, Bá Dũng, Lê Quý Kỳ, Nguyễn Xuân Phầu, Thạch Quỳ, Lê Duy Phương, Chính Tâm…Trên tạp chí Văn nghệ Nghệ Tĩnh, trên Báo Trung ương, báo Nghệ Tĩnh xuất hiện những tác phẩm bám sát nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh và tràn đầy tinh thần lạc quan. Văn xuôi thì bút ký: Chuyện về đất (ĐVK), Truyện vừa Ngày mai đã đến (B.D). Thơ thì dạng, kiểu: “Bước đi xa thay đổi cả tầm nhìn/ Sông hẹp lại khi tỉnh làm ăn lớn / Núi bé đi khi nhìn về trữ lượng / Ngắm đất đai thèm nói chuyện gieo trồng” (X.H); hoặc “Ta về đây cho đồng mở mênh mông / Cho máy chạy thẳng đường đi tới” (LDP). Một vị quan chức của tỉnh nhận xét: “Điểm nổi bật nhất các tác phẩm của chúng ta thời gian qua là cái đẹp, cái hùng, cái cao thượng trong đời sống của nhân dân địa phương đã trở thành đối tượng phản ảnh chủ yếu của các tác giả…” (Văn nghệ Nghệ Tĩnh số 21)
Nghĩ về dòng chảy văn, thơ giai đoạn ấy, tôi nhớ ngày đầu nhập tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, Hội văn nghệ Hà Tĩnh mang ra Hội văn nghệ Nghệ Tĩnh vỏn vẹn mấy tác phẩm: Cỏ mật- nhịp cầu (Tập thơ của Thái Kim Đỉnh); Cái lách nứa (Thơ châm của Thanh Minh); Những Ngôi sao (tập thơ), Xuân Hoài, Tình yêu sáng sớm (Tập thơ của Quốc Anh và Nguyễn Trọng Tạo), Đêm thu yên tĩnh (Tập Truyện ngắn của Chính Tâm và Lê Hoài Nam), Mưa rừng (Tập truyện ngắn của Hữu Lợi và tôi) . Trong Mưa rừng tôi có 4 truyện: Đêm gần sáng ở làng, Truyện ở một Trại chăn nuôi; Bà mẹ và cô con dâu và Khói xanh. Khói xanh viết về những chiến sỹ TNXP làm đường, còn 3 truyện viết về nông thôn. làng. Đấy là những truyện ngắn dừng ở kể một câu chuyện đơn giản, những con người đơn giản tôi từng gặp... Về sau mấy lần làm Truyện ngắn chọn lọc cho mình, mấy lần làm Tuyển văn của Hội văn nghệ, không có truyện nào của tôi được chọn in. Thời gian đầu hợp nhất Hội văn nghệ Hà Tĩnh và Hội văn nghệ Nghệ An, tôi chỉ là một anh thanh niên trẻ, non nớt về nghề, mỏng về tác phẩm. Nhận ra sự thua kém người chung quanh, điều này nung nấu trong tôi một quyết tâm khảng định mình. Một mình một xe đạp, cái xe Liên xô cao lồng ngồng, tôi “đi vào đời sống” tại nhiều địa phương, nhiều cơ quan, xí nghiệp, không nghĩ đến cái gọi là “ đề tài quen thuộc” là “quê hương sáng tác”. Sự thực đến ngày ấy tôi cũng chưa có “đề tài quen thuộc”, chưa có “quê hương sáng tác”. Gặp gì viết nấy, viết theo sự phân công của Ban biên tập Tạp chí Văn nghệ Nghệ Tĩnh. Mãi sau này, tôi mới nhận ra những tác phẩm đinh ninh “ để khảng định mình” ấy, nó được ra đời một cách nhanh chóng, đậm tính chính trị xã hội với giọng văn tụng ca xuyên suốt từ bút ký sang truyện ngắn, truyện vừa. Rốt cuộc sự “khảng định mình” chỉ ở số lượng các tác phẩm được xuất bản còn tư duy, cảm giác, cảm xúc của tôi về con người, về cuộc sống - cái làm nên hồn vía của tác phẩm thì rất mờ nhạt.
Một năm sau, cái không khí náo nức sôi nổi, cái khí thế bốc lửa trong lao động sáng tạo văn chương chững lại. Bức bối, đói kém, ngột ngạt. Chế độ bao cấp lương thực theo định lượng và chính sách cấm chợ, ngăn sông đã trói buộc cả chính quyền lẫn người dân. Tôi cũng như bao người sống dựa vào tem phiếu và những gì được cung cấp từ cửa hàng lương thực, cửa hàng thực phẩm của nhà nước. Mỗi năm một người được mua 5 mét vải, 0,3 kg thịt, 3 lít dầu, xà phòng, mỳ chính, chất đốt khi có khi không. Áo may ô, dao cạo râu, lốp xe đạp…chỉ bảo đảm được 20%, Công đoàn cơ quan phải tổ chức bốc thăm. Tình hình kinh tế đến đỉnh cao của khủng hoảng. Cuộc sống khu vực cán bộ công nhân viên chức và cả khu vực nông thôn, nơi mở mắt là nhìn thấy đất đai, bế tắc, ngột ngạt. Cơ chế quan liêu bao cấp như vòng kim cô thắt trên đầu mỗi người dân. Văn nghệ thành văn dành chỗ cho văn nghệ dân gian: Cây đinh phải đăng ký, trái bí cũng sắp hàng, khoai lang cần tem phiếu, thuốc điếu phải mua bông, lấy chồng phải cai đẻ, bán lẻ chạy công an, lang tháng đi cái tạo, hết gạo ăn bo bo, học trò không có tập…hoặc: Năm tám mươi, gạo tám mươi/ Dân xứ Nghệ mặt vàng như nghệ. Cứ thế, ngày qua ngày, cứ cựa quậy trong bầu không khí ngột ngạt khiến con người ta cứ phải thở hắt ra, cứ phải muốn đập tay vào ngực mà hét to lên.
Ngày 15-12-1986, khai mạc Đại hội VI của Đảng, một đại hội lịch sử, chấm dứt những sai lầm tả khuynh, ấu trĩ, duy ý chí, làm trái quy luật khách quan. Hơn 10 năm cơ chế quan liêu bao cấp đẩy đất nước vào chỗ bế tắc, bên ngoài thì giặc giã, bên trong thì bức bối đói kém. Đại hội VI bắt đầu cho đổi mới tư duy cơ cấu kinh tế; chấp nhận nền kinh tế nhiều thành phần; đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và đổi mới trong quản lý, sáng tạo văn học nghệ thuật. “Tự cứu mình trước khi trời cứu” rồi thì “Cởi trói” là những cụm từ được giới văn nghệ sỹ hào hứng đón nhận. Không khí đổi mới như ngọn gió nóng hổi từ Hà Nội thổi về các địa phương. Báo Văn nghệ của Hội nhà văn Việt Nam do nhà văn Nguyên Ngọc làm Tổng Biên tập in Truyện ngắn Linh nghiệm, phóng sự Lời khai của một bị can (Ông vua Lốp) của Trần Huy Quang, truyện ngắn Tướng về hưu, Vàng Lửa, Phẩm Tiết của Nguyễn Huy Thiệp, Năm ngày của Phạm Thị Hoài, Bước qua lời nguyền của Tạ Duy Anh, phóng sự Cái đêm hôm ấy đêm gì của Phùng Gia Lộc… Từ thực trạng nền văn học nước nhà, ngày 21-11-1987, trả lời phỏng vấn Báo Văn nghệ, Nguyễn Minh Châu nói: “Cái lỗi lớn nhất của mỗi người chúng ta là đã khiếp hãi trước cái xấu, cái ác, rồi lâu dần dường như không làm gì được thì chúng ta coi như không có nó – cuộc đời không có cái xấu, cái ác đang hoành hành, đang chi phối số phận con người, coi như cuộc đời không có oan khiên, oan khuất”.
Ở Nghệ Tĩnh, từ khi có chủ trương đổi mới, bởi “nết đất” Xô Viết mà các nhà văn chưa đủ dũng khi phản ảnh trực diện hiện thực hay do tính cách dè dặt mà chưa công bố tác phẩm của mình? Mãi năm 1988, mới xuất hiện bài thơ Nói với con, Qua Đền Công ghi chuyện cũ của Thạch Quỳ trên Báo Văn nghệ, Hội nhà văn Việt Nam. Sau đó là Nhà có thuốc thần, Ngổn ngang nơi trần thế của Đặng Văn Ký và một số it tác phẩm về lĩnh vực nghệ thuật như nhiếp ảnh, sân khấu. Trong không khí hiện thực đời sống và văn chương ấy, tôi viết truyện vừa “Những lỗi lầm đã qua”. Về nghệ thuật, từ kết cấu, giọng điệu trần thuật, xây dựng nhân vật vẫn theo đường ray cũ. Điều đáng nói là trong truyện vừa Những lỗi lầm đã qua đã có đổi mới về cách tiếp cận và phản ảnh hiện thực. Truyện kể về những vị lãnh đạo ở một huyện được Trung ương chọn làm thí điểm Sản xuất lớn Xã hội chủ nghĩa. Họ quên mình, quên gia đình, quên ký ức, say mê, hào hứng, lạc quan với phong trào dời làng lên núi, để rồi một thời gian sau nhận ra những chủ trương, những chương trình, những hành động của họ của tập thể do họ lãnh đạo đã sai lầm. Những tác phẩm của tôi sau mười năm kể từ ngày sát nhập hội văn nghệ Nghệ An và hội văn nghệ Hà Tĩnh (1976 -1986) : Mưa rừng (Tập truyện ngắn), Sương mù chưa tan (Truyện vừa) Nơi có truyện cổ tích (Truyện vừa) và cả Những lỗi lầm đã qua có le lói sự vượt thoát khỏi sự tuyên truyền thô thiển và giọng điệu tụng ca, nhưng vẫn mờ nhạt chìm trong quên lãng.
Chỉ hơn 2 năm sau, đầu năm 1989, Hội nghị Trung ương 6 nhấn mạnh những lo ngại chính trị trong “quá trình phát huy dân chủ”, kêu gọi “phải tỉnh táo đấu tranh chống lại những lực lượng lợi dụng việc mở rộng dân chủ để chống chế độ ta”. Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh nói rõ quan điểm: mở ra có mức độ về kinh tế, nhưng kiên định về lập trường chính trị. “Vòng trói” cởi ra đã dần bị thắt lại. Mở đầu cho nút thắt là Nguyên Ngọc bị cắt chức Tổng Biên tập Báo Văn nghệ. Sau đó lan rộng ra các địa phương. Nhiều tờ báo bị đình bản. Khoảng tháng 5 năm 1991, những nhân tố mới xuất hiện sau khi ông Linh hô hào cởi trói đều chìm lắng. Những đốm lửa mới được nhen lên chưa kịp tỏa sáng thì đã nguội tắt. Sợi dây “cới trói” bị thắt lại nhanh chóng. Ở Nghệ Tĩnh Tác phẩm đầu tiên “bị đánh” là bài thơ Nói với con của Thạch Quỳ. Một cuộc họp với danh nghĩa là Câu lạc bộ văn học đã được tổ chức. Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy và nhà thơ Minh Huệ, Hội trưởng Hội văn nghệ ngồi trên bàn Chủ tọa. Thạch Quỳ ngồi một mình một ghế cách bàn Chủ tọa chừng 3 mét và cách dãy ghế phía trên cùng 50 phân. Người ta phê phán bài thơ là thứ văn chương ám chỉ, biểu tượng hai mặt, chống con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội, là viên kẹo thuốc độc bọc đường. Sau vụ đánh vỗ mặt bài thơ Nói với con ấy, bệnh dạ dày của Thạch Quỳ tái phát. Ông không mấy khi ra khỏi nhà, suốt ngày ngồi quay lưng vào bếp than củi đặt cạnh giường nằm để lửa đánh lừa cảm giác về những cơn đau…
Không khí văn chương trở nên nặng nề, cho dù từ “Cởi trói” vẫn được dùng nhiều trên các phương tiện truyền thông. Những chuyện không vui của văn nghệ xẩy ra dồn dập. Không ít người tính tình vui vẻ, hòa nhã, từng ứng xử với bạn bè tử tế bỗng nhảy ra phê phán đồng nghiệp một cách vô lối, áp đặt tư tưởng chính trị vào văn chương rồi tùy tiện kết án văn chương bao nhiêu thứ tội, tội nào cũng thuộc loại chống đảng, chống nhà nước xã hội chủ nghĩa. Một lần nhà văn Việt Phương nói về nhà Triết học Trần Đức Thảo: “Thời Trần Đức Thảo sống và nghiên cứu sau năm 1954, xã hội chúng ta là một xã hội đặc biệt mà nguyên nhân gây ra những bi kịch có khi không hẳn là sự độc ác hay ghen ghét cá nhân hay thế lực nào đó. Nguyên nhân theo tôi chính là sự giáo điều chân thực. Chính vì chân thực nên nó càng khủng khiếp. Cái giáo điều ấy độc lập với nhân cách của mỗi người. Có thể bản chất họ rất tốt, nhưng khi đụng tới cái giáo điều của họ, họ trở nên đáng sợ” (Dẫn theo Nguyễn Khắc Phê, trong “Số phận không định trước”; NXB Hội nhà văn; 2016). Tạp chí Văn nghệ Nghệ Tĩnh số 42, 43, 44 vẫn 80 trang đầy đủ các chuyên mục như những số trước đó, nhưng các tác phẩm văn xuôi và thơ đều hiền hậu, tròn trĩnh. Các bài phê bình, tổng kết, đánh giá một giai đoạn văn học 1975-1990, Đọc Tuyển tập thơ Nghệ Tĩnh (1975 -1990) của Đoàn Mạnh Tiến, 15 năm văn xuôi Nghệ Tĩnh của Trần Hồng Cơ, 15 năm, một sự sống văn học của Minh Huệ, Văn học dân gian Nghệ Tĩnh những năm gần đây của Nguyễn Văn Hùng…khen, chê chừng mực hơn, đây đó gặp lời biện minh cho tư tưởng nghệ thuật cũ mòn của văn chương Nghệ Tĩnh.
Tháng 12 năm 1990, Hội văn nghệ Nghệ Tĩnh xuất bản “Văn nghệ Nghệ Tĩnh” số 46, kết thúc cho giai đoạn 15 năm Văn nghệ Nghệ Tĩnh. Một tháng sau thì tách Tỉnh. Hội Văn nghệ Nghệ Tĩnh tách thành Hội Văn nghệ Nghệ An và Hội Văn nghệ Hà Tĩnh. …
VII. ‘TÁC HỢP CƠ TRỜI”
1.
Kể từ khi tôi đi Thanh niên xung phong, tháng 10 năm 1972, ở nhà còn mẹ, chị Hường và ba đứa cháu nhỏ: Vinh, Hiền, Phương. Gia đình chị Hường ở một nhà, mẹ tôi ở một nhà. Anh chị em trong gia đình khuyên tôi cưới vợ để mẹ có cô con dâu ở bên cạnh khỏi cảnh cô đơn. Dạo ấy tôi chơi thân với Lê Hữu Dũng hiệu trưởng Trường cấp 2 Vĩnh Lộc. Trước đó, thời chiến tranh, trường này mang tên Trường “Ba Đảm đang” vì từ Hiệu trưởng, Hiệu phó đến 25 giáo viên đều là phụ nữ. Về sau cô hiệu trưởng Đinh Thị Giám theo chồng ra Hà Nội, Lê Hữu Dũng về thay. Lê Hữu Dũng đã giới thiệu với tôi “Cô gài làng Thịnh Văn” Lê Thị Thanh Bình. Bình là con gái ông Toại, họ Lê - dòng họ Lê Mậu Tài, Binh bộ Thượng thư thời Lê Trung Hưng nổi tiếng bao thời. 18 tuổi ông cùng vợ là Đặng Thị Tịnh theo đường rừng Trường Sơn sang Lào, rồi mấy năm sau sang định cư ở huyện Nakhon, Thái Lan. Mãi năm 1960 ông đưa cả gia đình về nước. Bấy giờ cô giáo Bình tròn 9 tuổi. Đấy là một cô gái dáng thon thả, khuôn mặt xinh đẹp. Rồi như duyên số chúng tôi đến với nhau. Hai đứa chỉ chờ người bố của Bình đồng ý. Nỗi chờ đợi lẫn lo lắng có nguyên do của nó. Hồi ở Thái Lan, ông làm Bí thư Huyện ủy NaKhon gần chục năm. Về nước ông làm ở Ban Bảo vệ sức khỏe tỉnh Hà Tỉnh, rồi Bí thư Đảng ủy Bệnh viện Đức Thọ cũng gần chục năm. Người Đảng viên Cọng sản kỳ cựu ấy có chấp nhận người rể là con địa chủ, con Chánh tổng? Sau một thời gian tìm hiểu, (tôi đinh ninh thế) và nghe những dư luận tốt đẹp về gia phong gia đình tôi, ông đã đồng ý cho chúng tôi thành hôn. Đám cưới chúng tôi đúng vào giai đoạn gian nan gạo châu, củi quế. Anh chị em ở Hội văn nghệ coi tôi là thằng em út trong gia đình văn nghệ lấy vợ, đã vui vẻ giúp đỡ. Người cắt ô phiếu 3 lượng, người cắt ô 5 lượng trong khẩu phần thịt hàng tháng của gia đình dành cho tôi. Tổng cọng được trên 5 kg. Có phiếu rồi nhưng mua được số thịt nhiều kg không phải dễ. Tôi đem những ô phiếu hình vuông mỗi chiều 1 cm ấy nhờ chị Nguyễn Thị Phước, vợ nhà thơ Duy Thảo, cán bộ Cửa hàng Thực phẩm Đức Lâm, Đức Thọ mua hộ.Lễ cưới được tổ chức ngày 28 - 6- 1977. Hôm ấy, cơ quan Hội đi làm ruộng tự túc ở Yên Thành, mỗi nhà thơ Minh Huệ, Hội trưởng về dự. Từ Vinh ông đạp xe đạp 32 cây số đến Kẻ Treo rẽ theo đường sang Thanh Lộc rồi theo lối ngoằn ngoèo trong làng vừa đi vừa hỏi địa chỉ, mãi tối mới tìm được tới nhà tôi.Tôi không quên được hình ảnh tác giả bài thơ “Đêm nay Bác không ngủ” nổi tiếng, phờ phạc, mỏi mệt dắt cái xe đạp Thống nhất cũ kỹ vào sân nhà tôi với ánh mắt thật thân thiện và vui vẻ. Tôi còn nhớ quà mừng cưới của cơ quan Hội văn nghệ Nghệ Tĩnh là một bộ ấm chén đất nung đựng trong cái đĩa nhôm gò từ ống pháo sáng của Mỹ. Mãi sau này tôi còn cất giữ cái đĩa ấy – xưm như một kỷ niệm tốt đẹp về tình nghĩa của anh chị em văn nghệ thời gian khó.
Một năm sau, 1978, vợ tôi sinh con đầu lòng, đặt tên Đức Sơn. Hôm ấy tôi đang dự trại sáng tác văn xuôi liên tỉnh Nghệ Tĩnh - Thanh Hóa ở huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa không về được. Chuyện sinh nở của vợ tôi đều do ông bà ngoại lo liệu. Ông là y sỹ, Trưởng phòng khám, bà là nhân viên phòng Hành chính Bệnh viện, thế nên vợ và con tôi được chăm sóc chu đáo từ sinh hoạt đến thuốc men, ăn uống hàng ngày, “chẵn tháng” mới cho về Vĩnh Lộc. Ba năm sau, vợ tôi cũng về bám dựa vào ông bà để sinh con thứ hai. Thêm hai người con, đã nghèo khổ càng gian nan hơn.
Từ tháng 3 -1978, nạn đói lan ra 21 tỉnh, thành. 9,3 người thiếu ăn, trong đó có 3,6 triệu người đứt bữa, nghe đồn nạn đói có dáng dấp năm 1945. Nghệ Tĩnh nạn đói càng gay gắt. Sổ lương thực của gia đình tôi chỉ mua được 30% gạo, còn thì hạt bo bo và mì bột. Rau, đậu phụ, mỡ cá không có bán theo tem phiếu. Vợ con tôi vẫn ở làng. Hàng tuần bố vợ tôi cưỡi trên chiếc xe đạp sơn vàng, lốp quấn dây cao su đi 35 cây số đường đất đỏ gồ ghế xuống nhà tôi mang theo cho các cháu vài vỉ thuốc kháng sinh, vài hộp sữa Ông Thọ. Ngoài công việc dạy học vợ tôi cấy lúa trên mảnh đất 5% trước ngõ và trồng rau cỏ trong vườn. Mỗi lần ôn lại chuyện ngày xưa, cô ấy thường nói, nhờ làm vợ tôi mà biết công việc của một nông dân, từ cấy, gặt, trục, rê, sàng sảy lúa…Cuộc sống gia đình tôi bập bềnh trôi qua giai đoạn“dân Xứ Nghệ mặt vàng như nghệ.”trong tình cảnh “Anh Đồng, anh Duẫn , anh Chinh / Ba anh có biết dân tình sao không/ Rau muống nửa bó một đồng/ Con ăn, bố nhịn đau lòng thằng dân”.
2.
Đã khổ nhưng vợ một nơi chồng một nẻo càng cực hơn. Đầu năm 1984, tôi xin cho vợ chuyển ra dạy ở Thành phố Vinh. Bấy giờ Lê Duy Phương, Phó Chủ tịch Thành phố, hội viên thơ của Hội văn nghệ Nghệ Tĩnh là chỗ quen biết hứa hẹn giải quyết, nhưng rồi mãi ba năm sau, năm 1982, nhà văn Bá Dũng làm Phó chủ tịch thay Lê Duy Phương, vợ tôi mới có quyết định thuyên chuyển.Năm người: tôi, vợ, hai đứa con và đồ đạc, giường, tủ lỏng lẻo trong một thùng xe tải, chạy một mạch từ Vĩnh Lộc ra Vinh. Bấy giờ Hồng Nhu, Bá Dũng, xuân Hoài, Thạch Quỳ, Đào Phương, Đặng Văn Ký, Quốc Anh, Minh Huệ…đã chuyển ra ở trong các căn hộ khu nhà cao tầng Quang Trung do Cộng hòa dân chủ Đức giúp xây dựng, Trần Hữu Thung nghỉ hưu về ở cùng vợ con tại Bệnh viện Diễn Châu, Quang Huy, Tuyết Nga, Ngô Thực chuyển ra Hà Nội, Tùng Bách vào Vũng Tàu, Hữu Lợi đi Lâm Đồng…Khu Văn phòng Hội văn nghệ Nghệ An 3000 mét vuông đất với 5 dãy nhà như đã kể, chỉ giữ lại được hai ngôi nhà. Một nhà gia đình Chính Tâm ở, còn một nhà 2 gian, mỗi gian trên 16 mét vuông, 1 gian cho gia đình tôi, 1 gian dành cho chị Nguyễn Thị Luyên, độc thân, kế toán cơ quan Hội. Nhà khung gỗ, nghiêng nghiêng, mái lợp tranh mía từ dạo chuyển từ nơi sơ tán ở Yên Thành về đã bị hoai mủn, năm nào đó người ta phủ lên trên tranh mía một lớp giấy dầu rồi lớp giấy dầu kia cũng biến chất rách chỗ này, thủng chỗ kia. Ngày nắng nắng dọi vào phòng, ngày mưa nước nhỏ tanh tách xuống gường, tủ, bàn ghế. Nguyễn Xuân Đức, Hiệu phó Trường Đại học Vinh, bạn học với tôi hồi cấp ba Can Lộc đứng nhìn rồi lắc đầu vẻ ngao ngán và nói: “Mình đã vào Nam, ra Bắc, sang cả Liên xô không thấy nhà ai có cửa sổ hình bình hành như nhà cậu”. Hôm sau Nguyễn Xuân Đức thuê xe công nông chở lên cho tôi 300 viên gạch táp lô, Quốc Anh xin tranh tro từ Hưng Nguyên về, tôi mượn người dựng thêm một cái bếp rộng 13 mét vuông có cửa thông với phòng ở. Tổng cọng tôi có những 16 mét vuông sử dụng đủ đặt 2 cái giường và một cái bàn nhỏ với 6 cái ghế không có tựa. Bốn cha con mẹ con nằm một giường, một giường rộng 60 phân dành cho mẹ tôi. Mấy tháng sau, bố, mẹ vợ tôi nghỉ hưu chuyển từ Bệnh viện Đức Thọ ra Vinh. Hai ông anh vợ tôi đã có gia đình, một ông có nhà riêng, một ông đang tá túc trong gian nhà tập thể chật chội của Trường cấp 2 Quang Trung. Mẹ vợ tôi ở với người con thứ, còn bố vợ tôi đến ở với gia đình tôi. Vậy là 6 người trong gian nhà 16 mét vuông, đủ diện tích cho 2 cái giường và một bộ bàn ghế uống nước, ăn cơm. Đành phải đưa bàn ghế ra thềm để có chỗ kê thêm một cái gường 60 phân. Tôi lâm vào tình cảnh thật gian nan. Suốt ngày loay hoay với việc ăn, ở. Đầu óc tôi chỉ có chỗ nghĩ tới văn chương vào nửa đêm về sáng, khi thế gian đã chìm vào giấc ngủ, khi vợ tôi đã thức dậy nhẹ nhàng ra khỏi nhà đạp xe đưa bánh mỳ cho các quán phở, quán cháo dọc đường Cửa Nam ra Ga Vinh để kiếm lãi 2 xu/1bánh. Ngày nào cũng như ngày nào. Ngoài đưa bánh mỳ, vợ tôi còn may nón lá. Khi đứa cháu con chị Chắt đi xuất khẩu lao động ở Liên xô về cho một các máy khâu thì vợ tôi có thêm nghề may gia công quần áo cho chị Hồng, vợ họa sỹ Đào Phương. Khéo tay hay làm, tiền nhỏ giọt tí tách như phin caphe nhưng ngày nào cũng có thu nhập. Hai đứa con hầu hết thời gian trong ngày cúi gập lưng bóc lạc. Những người bóc lạc đều trầy da ngón tay trỏ và ngón tay cái, người ta “sáng tạo” ra cái kẹp bằng hai thanh tre. Đựng củ lạc vào giữa kẹp, bóp nhẹ và “tách”… Đêm đêm bốn phía chung quanh cứ nghe tiếng kẹp lạc tách… rách tách…rách. Về sau, được anh Ba chồng chị Thuyến cùng cơ quan nhường cho một mảnh đất trũng dưới Hồ thành cấy rau muống, Rau đủ ăn ngày hai bữa còn thì hai đứa con đưa ra chợ Đội Cung bán. Tôi cùng nhà văn Chính Tâm thường ngày đi mua mùn cưa, than đá làm chất đốt. Có ngày ra cửa hàng nông sản ngồi chờ nhận lạc vỏ về bóc. 100kg lạc vỏ, bóc khéo, nghĩa là không bị vỡ hoặc dập, tróc vỏ lụa, lấy 68 kg nhập kho, sẽ dư thừa được 1kg. Không thể diễn tả được cảm xúc của chúng tôi khi đứng trước bàn cân: Thắc thỏm, lo lắng đến tội nghiệp và khi được cô cán bộ cửa hàng nông sản gật đầu thì niềm vui dào lên trong lòng; thứ niềm vui thật tội nghiệp, xa xót. Cuộc sống gian nan ấy kéo dài năm này sang năm khác và sức chịu đựng của con người theo đó cũng cạn kiệt dần.Một hiện thực khắc nghiệt bủa vây khắp nơi.
3.
….Năm 1983, tôi làm hồ sơ thi vào Khóa II, Trường Viết văn Nguyễn Du. Có giấy báo trúng tuyển, tôi chia tay vợ và hai con nhỏ, nhảy tàu ra Hà Nội. Tàu chợ Vinh - Hà Nội ngày 2 chuyến. Tôi đi chuyến 14 giờ. Chen giữa ngổn ngang bao tải đựng lạc, thùng đựng trứng, cam, chanh… cồng kềnh mới tìm được chỗ đặt chân. Người chao đảo như con lắc đồng hồ giữa khoảng không dày đặc bụi và mùi mồ hôi người, mùi thuốc lá, mùi nước trầu, mùi cá khô, mùi ruốc bể nồng nặc. Khổ nhất là lúc tàu dừng ở các ga xép, kẻ xuống, người lên, giẫm đạp, xô đẩy, hò hét, chửi bới… Chiều tối hôm sau, sau 24 giờ đồng hồ ì ạch, tàu mới đến Ga Hà Nội. Tôi còn bị đày đọa như thế nhiều lần trong các chuyến tàu Hà Nôi- Vinh, Vinh- Hà Nội.
Tôi vào Trường Viết văn Nguyễn Du khi khóa 2. Trước đó, Khóa 1(niên khóa 1978- 1982) đã bế giảng. Khóa 1 gồm các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng trong chiến tranh chống Mỹ: Hữu Thỉnh, Chu Lai, Nguyễn Trọng Tạo, Lê Thị Mây, Lâm Thị Mỹ Dạ, Dương Thu Hương, Vương Trọng, Trần Bình Trọng, Trung Trung Đỉnh, Nguyễn Khắc Trường, Khuất Quang Thụy, Trúc Phương…(Những người sau này làm lãnh đạo chủ chốt ở Hội Nhà văn Việt Nam và các cơ quan trực thuộc Hội, các Hội VHNT địa phương). Khóa 2 gồm thế hệ nhà văn sau chống Mỹ và một số nhà văn thế hệ chống Mỹ chưa học khóa I: Hà Đình Cẩn, Phùng Khắc Bắc, Đặng Ái, Trần Tự, Ngô Bảo Châu, Trần Dũng, Trần Hiệp, Văn Chinh, Trần Quang Quý, Phạm Sông Hồng, Nguyễn Lập Em, Hoàng Phương Nhâm, Y Phương, Nguyễn Trác, Trần Quốc Thực, Trần Đăng Khoa, Nghiêm Thị Hằng, Phạm Đức, Nguyễn Văn Chương, Kim Chuông, Phạm Ngọc Chiểu, Ngọc Bái, Phạm Minh Thư, Lê Hoài Nam…
Giáo sư Huỳnh Khái Vinh, Hiệu trưởng Trường đại học Văn hóa kiêm hiệu trưởng Trường Viết văn. Trực tiếp phụ trách là Giáo sư Phạm Vĩnh Cư, Hoàng Ngọc Hiến.
Những nhà văn nổi tiếng Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Tuân, Nguyễn Thành Long, Nguyễn Văn Bổng, Nguyên Ngọc, Nguyễn Xuân Sanh, Huy Phương, Bùi Hiển…dạy chúng tôi về các nguyên lý sáng tạo, các trào lưu, trường phái văn nghệ trên thế giới và những kinh nghiệm sáng tác. Các Giáo sư Phạm Vĩnh Cư, Hoàng Ngọc Hiến, Đặng Nghiêm Vạn, Từ Chi, Hà Văn Tấn, Nguyễn Khắc Phi, Hồ Ngọc Đại, Phan Ngọc, Trần Quốc Vượng, Nguyễn Trân, Lê Sơn…truyền đạt kiến thức Dân tộc học, Xã hội học, Triết học con người, Mỹ thuật, Kiến trúc. Lịch sử…
Để san sẻ khó khăn, vất vả cho vợ, cuối năm 1983 tôi về Vinh đón con trai đầu lên 6 tuổi ra ở cùng. Anh chị em sinh viên ở trong ngôi nhà cấp 4 tường xây gạch, mái lợp tranh nứa. Phía trước là một hồ nước xanh um bèo tây, thế giới của côn trùng và ruồi muỗi. Hai bố con tôi ở nửa phòng số 6 (Bạn bè bảo là phòng Sê Khốp), nửa còn lại của nhà văn Đặng Ái, người Thanh Hóa. Gạo, mỳ sợi theo chế độ tem phiếu, 45 đồng tiền lương hàng tháng chi tiêu một cách vô cùng dè sẻn theo tiêu chuẩn “sinh viên cố nông”. Cơm độn mỳ, canh rau cần và cá mè ranh mua ở chợ Thành Công. Hai tháng một lần, tôi gửi con nhờ Đặng Ái trông giùm nhảy tàu chợ xuống Hải phòng rồi đạp xe đạp sang Nhà máy sửa chữa tàu biển Phà Rừng ở Thủy Nguyên. Anh Tấn làm Trưởng phòng kỷ thuật của nhà máy dẫn tôi xuống tàu thủy, lấy dầu điezen cho vào đầy hai cái can 5 lít. Xong lại lên ga tàu Hải phòng để kịp chuyến 20 giờ đêm. 10 lít diêzen đủ cho một tháng đốt bếp dầu.
Các nhà văn bươn bã kiếm thêm tiền: Người miền Trung như tôi thì buôn trứng, buôn lạc nhân từ Xứ Nghệ ra Hà Nội bán sỉ cho hàng quán dọc đường Nam Bộ ngay lối vào ga Hàng Cỏ, hoặc mang ra chợ Thành Công trước cổng trường. Người vùng Tây Bắc thì buôn chè Thái, người vùng Đông Bắc thì buôn cá khô…Và viết báo, làm thơ, viết văn. Ngày nghỉ học, các nhà văn sinh viên tỏa ra, đến các nhà xuất bản, các tòa soạn Báo bán tác phẩm. Nhà thơ Nguyễn Văn Chương ở cạnh phòng tôi, nói Đài Phát thanh Hà Nội đang rất thiếu truyện thiếu nhi. Nhuận bút kha khá, tuần lĩnh một lần, đủ rau cỏ cho mươi ngày, nếu truyện được phát sóng. Chú mày viết đi. Tôi bắt tay viết truyện đồng thoại cho lứa tuổi nhi đồng. Hàng chục truyện nhẹ nhàng, xinh xắn tôi viết vào những lúc không lên lớp gửi cho Đài Phát thanh Hà Nội. Sau này tôi tập hợp in thành một tập lấy tên Hoa Cúc vàng. Hoa Cúc Vàng được nhà xuất bản Kim Đồng in lần đầu với số lượng 6 vạn bản.
(Sau này, Tú Ngọc, Biên tập viên nhà xuất bản Nghệ An viết: “Một đặc điểm nổi bật của 12 truyện ngắn viết cho thiếu nhi chọn lọc in trong tập Đức Ban- Tác phẩm chọn lọc là chất thơ thấm đẫm trong từng trang viết, tạo nên một vẻ đẹp riêng, hấp dẫn người đọc, đặc biệt là những bạn đọc nhỏ tuổi.Theo chúng tôi chất thơ ấy thể hiện ở vẻ đẹp của cảm xúc, ở cách nhìn, cách nghĩ của tác giả đối với thế giới xung quanh, được biểu đạt thông qua hình thức ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhạc điệu … Chính đặc điểm này đã làm cho những trang viết của ông trở nên mềm mại hơn, và cũng chính vì thế mà tác phẩm của ông dễ đi vào tâm hồn trẻ thơ, gợi cho các em những liên tưởng thú vị, những rung động thẩm mĩ và tình cảm nhân văn sâu sắc”
Cái chất thơ ấy, cái giọng điệu, cái hơi văn ấy đâu đấy trong tâm hồn cứ tự nhiên mà ra cho dù tuổi thơ của tôi thì bị đánh cắp, cuộc đời thì bầm dập những thăng trầm. Sau này, Nguyễn Thị Nguyệt, biên tập viên của một Tạp chí VHNT địa phương đã lý giải: “Nếu như “thế giới người lớn” trong văn chương của ông khá nặng nề, ngột ngạt bởi gánh nặng làm người thì “thế giới trẻ con” như một đối trọng trả lại sự cân bằng, thảnh thơi, nhẹ nhõm Chính chất thơ như một “dòng chảy ngầm” làm nên vẻ đẹp đặc biệt trong những tác phẩm viết cho thiếu nhi của nhà văn Đức Ban. Và đặc điểm này, thiết nghĩ cũng là một phẩm chất rất cần thiết ở những sáng tác dành cho lứa tuổi thiếu nhi nói chung. Đó là cách tốt nhất để khơi gợi ở các em những cảm xúc đẹp đẽ về thiên nhiên, về con người, hướng các em đến những giá trị nhân văn tốt đẹp trong cuộc sống”
Trước khi về nghỉ hè năm thứ 2, tháng 5 -1984, Trường tổ chức nhiều nhóm sinh viên đi thực tế. Nhóm chúng tôi gồm Nhà thơ Thúy Bắc, cán bộ Giáo vụ nhà trường, nhà thơ Phạm Đức, nhà thơ Nguyễn Thanh Kim và tôi đi Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam. Mơ ước được qua sông Bến Hải vào phía Nam từ sau đại thắng mùa xuân 1975, gần 8 năm sau mới toại nguyện. Ở Quảng Nam, nhà thơ Bùi Minh Quốc, Hội văn nghệ Quảng Nam đẫn chúng tôi về huyện Duy Xuyên, vùng đất bị tàn phá nặng nề và chịu nhiều tang thương trong chiến tranh chống Mỹ. Đi cùng chúng tôi còn có cháu Ly, con gái nhà thơ Bùi Minh Quốc và nhà báo Đào Thị Xuân Quý. Anh Quốc bảo, năm 1966, chị Quý sinh bé Ly. Ly được 8 tháng thì chị Quý gửi con cho bà nội và khoác ba lô vào chiến trường và hy sinh trong cuộc càn của lính FacChunghy. Chúng tôi đến nghĩa trang Duy Xuyên viếng mộ nhà báo Dương thị Xuân Quý. Anh Quốc nói trong nước mắt, dưới mộ chỉ có đất thôi. Nắm đất lấy chỗ căn hầm cô ấy trú ẩn. “Thôi em nằm lại với đất lành Duy Xuyên”, câu thơ của nhà thơ Bùi Minh Quốc theo chúng tôi suốt những ngày sau đó. Sau chuyến đi ba nhà thơ đều có thơ, những bài thơ viết về chiến tranh. Tôi trăn trở với ý định viết bài ký về nhà báo Dương Thị Xuân Quý, nhưng rồi chỉ viết được mỗi bài bút ký Những đốm lửa trên đảo Yến về những người dân bóc thu tổ Yến trên đảo Cù Lao Chàm.
(23 năm sau, tôi gặp lại nhà thơ Bùi Minh Quốc trong một hoàn cảnh thật oái oăm. Bấy giờ tôi đang làm Giám đốc Sở văn hóa thông tin. Một hôm tôi nhận được điện thoại của Thiếu tá Nguyễn Bá Khằm, Trưởng phòng PA25, Công an Hà Tĩnh. Anh nói: “Tối hôm qua, Bùi Minh Quốc gặp gỡ văn nghệ sỹ Quảng Bình, ngày mai anh ta sẽ ra Hà Tĩnh gặp anh. Tôi đề nghị anh không tổ chức anh em nhà văn tụ tập gặp Bùi Minh Quốc và không ký vào những văn bản anh ấy đưa ra”. Đúng như lời Nguyễn Bá Khằm, khoảng 4 giờ chiều thì nhà thơ Bùi Minh Quốc xuất hiện trước cửa phòng tôi.
Tối ấy, tôi uống rượu cùng Bùi Minh Quốc.Tôi nói, anh đi hàng trăm cây số ra Hà Tĩnh, tôi giúp được anh cái gì đây và cũng cũng không hỏi, chương trình của anh trong thời gian ở Hà Tĩnh. Suốt cả buổi, Bùi Minh Quốc cũng chỉ nói chuyện văn chương. Sáng hôm sau, mờ đất anh chia tay tôi, đi xe khách ra Nghệ An, rồi ra Hà Nội.
Sau này, mỗi lần vào Đà Lạt, hay ra Hà Nội tình cờ gặp anh, lòng tôi lại nhói lên cái cảm giác có lỗi mơ hồ.
…Trở lại chuyến đi thực tế ở Quảng Nam. Chúng tôi chia tay anh em văn nghệ Hội văn nghệ Đà Nẵng rồi lên chuyến tàu chợ Đà Nẵng -Hà Nội.
Năm thứ hai, nhóm thực tế miền Trung vẫn do nhà thơ Thúy Bắc đẫn đầu. Chúng tôi lên các huyện Thanh Chương, Đô Lương, Nghệ Tĩnh, những miền đất chập chùng rừng núi cách Thành phố Vinh hàng trăm cây số. Chất liệu, tư liệu chuyến thực tế này về sau tôi dùng vào bút ký” Dưới những tán lá cây yên tĩnh” và truyện vừa” Suối vẫn chảy trong rừng”.
Sau chuyến thực tế miền Tây Nghệ An, tôi ở lại Vinh chờ nhà thơ Nguyễn Trác, Phó Bí thư Chi bộ lớp Viết văn Nguyễn Du vào để dẫn anh về Vĩnh Lộc thẩm tra Lý lịch kết nạp Đảng cho tôi. Sáu năm trước, chi bộ Hội Văn nghệ Nghệ Tĩnh cũng đã hai lần cử nhà thơ Xuân Hoài đi làm việc ấy. Cả hai lần đều thất bại. “Sự bất quá tam”, lần này tôi vẫn thắc thỏm, hy vọng như hai lần trước, khác chăng có chút bất cần le lói trong suy nghĩ. Nhờ “nghệ thuật giao tiếp” của Nguyễn Trác hay do lãnh đạo xã đã không còn nặng nề “chủ nghĩa thành phần” nên trong phiếu thẩm tra có thêm hai chữ “đồng ý”.
Ngày 5 tháng 6 năm 1986, Đảng ủy Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội ra Quyết định kết nạp tôi vào Đảng cộng sản Việt Nam.
Năm học cuối khóa, trường không tổ chức đi thực tế mà tập trung làm tác phẩm tốt nghiệp. Tháng 6 thi Tốt nghiệp. Như các Trường Đại học khác với những môn thi theo quy định của Bộ Giáo dục, chúng tôi nộp thêm tác phẩm tự chọn thay cho luận văn. Lễ Tốt nghiệp Khóa II Trường viết văn Nguyễn Du được tổ chức sang trọng tại Hội trường Trường Đại học Văn hóa, Hà Nội.
Sau Lễ Tốt nghiệp, tôi đi dự trại viết do Hội nhà văn tổ chức dành cho các cây bút xuất sắc thế hệ sau 1975. Trại tổ chức ở khách sạn Suối Hoa -Thị xã Bắc Ninh, gồm các gương mặt: Bảo Ninh, Thuỳ Linh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Trọng Tín, Song Hảo, Trần Hoàng Bách, Thái Sinh, Nguyễn Quang Lập, Trần Thùy Mai và tôi... Nguyễn Quang Lập bảo, “gom đủ cả một mớ người tài ba miền”. Cũng theo Lập thì “Hội nhà văn định dùng trại này như một đột phá khẩu để làm một cuộc cách mạng văn xuôi”. Nhà văn Đỗ Chu phụ trách trại, nói: “Tôi được Hũu Thỉnh giao cho cái trại vĩ đại nhất từ xưa đến nay. Các bạn phải viết cho tốt để tôi còn vào Đảng”. Sáng sớm, anh Chu đi từ đầu đến cuối hành lang tầng 2 khách sạn, qua phòng nào anh cũng gõ cọc cọc cọc, nói rất to: “Viết! viết! Viết!” Rồi về phòng mình nằm ngửa đọc Kinh thánh. Trại viên như chúng tôi, ngoài viết thì xuống thị xã Bắc Ninh uống bia hoặc lên hội trường Khách sạn nhìn các cô gái diễn viên đoàn Quan họ xinh đẹp và nghe hát: “Ngồi tựa mạn thuyền…”
Cuối trại, tôi nộp bản thảo cái truyện vừa “Những người ở chung nhà” cho Đỗ Chu. Đỗ Chu đọc và ghi nhận xét:“Như một ngôi nhà có xương cốt chắc chắn nhưng da với thịt thì còn lỏng lẻo lắm…”. Về sau tôi đã để quên cái bản thảo truyện vừa ấy trong tủ đựng bản thảo lai cảo.
5.
Tháng 8 năm 1986, tôi trở về Hội văn nghệ Nghệ Tĩnh với hai ghi nhận là vào Đảng, sau 15 năm kiến trì phấn đấu và Tốt nghiệp Đại học, sau 21 năm tốt nghiệp lớp 10. Riêng văn chương sau 10 năm ở cơ quan văn nghệ chỉ có vài tác phẩm sống được trong một thời gian ngắn, mà cũng chỉ là một sự sống nhạt nhòa, khó khăn lắm mới tìm thấy máu thịt của tác giả.
Sau khi cán bộ cơ quan Hội thuyên chuyển, nghỉ hưu, chuyển chỗ ở mới, khu cơ quan Hội từng tọa lạc trên khu đất hàng ngàn mét vuông chỉ còn lại hai khoảnh và hai ngôi nhà như đã kể. Nhà thơ Nguyễn Quốc Anh bấy giờ là Chủ tịch công đoàn đã xuôi ngược lo thủ tục chuyển đổi quyền Quản lý đất cho hai hộ gia đình. Ở tuổi 42 tôi có một ngôi nhà 40 mét vuông trên diện tích 120 mét vuông. Mẹ tôi đã về quê ở với chị Hường, bố vợ đã có nhà riêng, hai ông bà ở cùng cậu con út, gia đình tôi còn 4 người hai vợ chồng và 2 đứa con, nhà trở nên rộng rãi. Lần đầu tiên sau 15 năm làm cán bộ Hội văn nghệ Nghệ Tĩnh, tôi có một phòng đặt giá sách và bàn ghế làm việc. Con trai đầu của tôi vào học lớp 8. Con trai thứ học lớp 5 Trường cấp 2 Quang Trung cạnh cổng Tả, cách nhà vài trăm mét. Ngoài lúc đến lớp hai đứa đã giúp mẹ đốt than tổ ong, xuống hồ thành hái rau muống.
Tưởng đã được thanh thản, thì mẹ tôi ốm nặng. Cuộc đời gian khổ đã khiến sức mẹ cạn kiệt trước tuổi. Tôi bỏ việc cơ quan đạp xe về chăm mẹ. Bác sỹ bảo mẹ tôi bị ung thư vòm họng đã đến kỳ di căn. Những cơn đau, chắc rất khủng khiếp khiến mẹ phải co rúm người, những ngón tay gầy bấu chặt vào mạ giường. Seduxen, morphine cũng vô ích. Mẹ chịu dựng cơn đau bằng tất cả sức lực còn lại, bằng tất cả sự kiên cường đã thành tính cách mẹ suốt nửa thế kỷ qua. Mẹ có 6 người con, tôi là con út, “giàu con út, khó con út”, tôi được ở gần bên mẹ lâu nhất, hưởng tình thương yêu của mẹ nhiều nhất. Saú, bảy tuổi đầu đời, tôi nhỏ bé, yếu ớt trong vòng tay che chở của mẹ giữa cơn bão lũ cay đắng, dữ dằn cải cách ruộng đất, rồi 10 năm đi học trong nghèo khó, thêm 10 năm tuổi thanh xuân tôi bươn bã đủ nghề trong tâm trạng nặng nề, thất vọng mẹ dắt tay tôi tìm lối ra khỏi vòng tròn định kiến giai cấp hẹp hòi đôi khi đến tàn nhẫn. Lần tôi không được vào đại học, lần đi bộ đội bị trả về làng…mẹ và tôi cùng chung một nỗi buồn. Bao nhiêu đêm tôi đi ra cánh đồng Cựa, ngồi bên bờ sông Nhe, dù sông hẹp mà vẫn thấy bờ kia xa biền biệt...Tóc mẹ trắng rối vào chiều ngơ ngác/ Mẹ và tôi không ra khỏi cánh đồng. Khi tôi thành nhà văn, có chút chức tước văn nghệ, mẹ vẫn dõi theo từng bước đi của tôi, rồi thì cứ lo lắng như từng lo lắng cho thằng con út nhỏ bé, yếu ớt của mẹ. Nay thì mọi suy nghĩ, mọi yêu thương, mọi lo lắng, mọi hy vọng, mọi niềm vui của mẹ dành cho những người con của mẹ đã kết thành im lặng trong tấm thân gầy. Đến những ngày mẹ không kêu rên, không bấu tay vào mạ giường, không nói, không ăn, không uống. Tiếng khóc thầm và nước mắt của những người trong gia đình dường như làm dịu bớt đau đớn cho mẹ, mẹ mở mắt nhìn chúng tôi, ánh mắt chợt sáng lên. Rồi thì tắt ngấm. Tôi và các anh chị em ngồi quanh mẹ, nhìn mẹ lịm dần, lịm dần. 5 giờ sáng thì mẹ ra đi. Bấy giờ là ngày 27 - 9-1987. Ngày 28- 9-1987, bà con ruột rà thân thích nội, ngoại, láng giềng chòm xóm, lãnh đạo các cơ quan của anh Quang, anh Tấn, anh Mạo và Hội văn nghệ Nghệ Tĩnh, Sở Văn hóa Thông tin Nghệ Tĩnh đến tiễn mẹ tôi về cõi vĩnh hàng. 38 tuổi tôi đã phải mồ côi cả cha lẫn mẹ.
Hơn một tháng sau ngày mẹ rời cõi tạm, tôi đến đền Thánh Mẫu, thắp hương cầu mong Đức Mẹ phù trợ độ trì cho vong hồn của mẹ thanh thản ở cõi vĩnh hằng.
Hôm ấy, tôi đứng nhìn ngôi đền chỉ còn mỗi nhà Thượng điện, mái ngói trồi trụt, tường hồi lở lói, lòng bỗng xao động nhớ những tòa nhà uy nghi: Nhà bái đường, nhà trung điện, nhà thượng điện đến tắc môn, tượng ông Thiện, ông Ác hai bên cửa vào Hạ điện, rồng bay hổ chầu trên mái ngói…Những hình ảnh ấy cứ hiện lên mờ ảo trong nhiều giấc mơ của tôi.
18 năm sau nó thức dậy cho tôi viết truyện ngắn Đền Đức Thánh Mẫu. Truyện kể về một cô bé tên là Nợi bị tật nguyền vì người bố tin vào sự linh thiêng của Thánh Mẫu, sùng bái cái thế lực vô hình, vô ảnh mà giang tay đánh vào đầu con gái. Cú đánh làm tắc một mạch máu nào đấy trên đầu cô con gái. Bao nhiêu năm trôi qua, cô gái Nợi bạn chăn bò với tôi hồi thơ bé đã thành bà già tật nguyền. Ngót ba chục năm rồi, đầu óc tôi lèn chất lên bao nhiêu thứ, quê cũ nằm sâu dưới đáy ký ức bộn bề. Tôi phải hỏi ba lần bảy lượt mới tìm được đường về tận làng. Làng tôi vẫn nguyên chỗ cũ, ba phía sông, một phía đồng, heo hút, đơn côi. Đường vào làng quá nhỏ, ôtô không đi được. Một mình tôi đi bộ dọc con đường men theo bờ sông hoang vắng. Trong ký ức lờ mờ, hỗn độn, lần lượt hiện lên những hình ảnh xa xưa, nó rõ ràng đến nỗi, tôi phải áp mạnh cả hai bàn tay lên ngực. Nợi... Bãi lau... Con bò xám... Đền Thánh Mẫu... Con rồng... Tôi lần trí nhớ, tìm lối vào Đền thờ Thánh Mẫu. Thay vì hai dãy nhà oai nghiêm mà cũ kỹ, là lổn nhổn những cây cột lim, xà lim cháy xém, những mảng tường lở lói đứng chơ vơ
- Hồi Mỹ ném bom, lửa cháy vào đền thờ - Một người nông dân giải thích cho tôi khi tôi vừa ở trong đống đổ nát ra.
- Mấy người tìm đồng đen đã đốt đền - Một cậu thanh niên bảo.
Chập tối, không nhờ ai chỉ đường, tôi lần theo trí nhớ tìm đến nhà Nợi. Dĩ nhiên ông Đa đã chết, mái nhà tranh đổ ụp không còn nữa, cái bếp trống huếch không còn nữa. Thay vì những cái đó là một ngôi nhà nhỏ xinh xắn nằm dưới cây nhãn già nua. Tôi rơi vào một căn buồng vàng vọt ánh sáng đèn dầu hoả, sặc những mùi kỳ lạ mà từ lâu tôi đã quên - mùi cỏ, mùi đất ẩm và mùi gì nữa ngòn ngọt. Nợi đang ngồi trên giường... Những nét vẻ trên khuôn mặt em, dáng vẻ em mà trí nhớ của tôi vừa phục hồi lại được khi bước vào lối ngõ trên những hòn đá đã bị thời gian mài mòn vẹt, nhẵn thín, không còn một chút nào ở người đàn bà đang hiện hữu cách tôi còn một tầm tay với. Bà cựa quậy, cánh tay phải thõng thượt rơi dọc bờ hông, những ngón tay mềm oặt bất động đính vào mạ giường. Bà ngửng khuôn mặt khó hiểu, cứng cỏi, khuôn mặt với cặp mắt mở to sáng quắc mang vẻ khắc nghiệt lạnh lùng và quyết liệt đến nỗi tôi phải mấp máy môi một lúc mới cất nổi tiếng chào. Với một động tác rất nhanh và thuần thục, bà kẹp cái nạng gỗ vào nách đứng dậy. Cái bóng của bà liêu xiêu trên vách nứa nơi có mấy tia sáng của vầng trăng rằm vừa lọt vào. Lòng tôi bỗng nhói đau. Tôi nhớ đến ngôi đền thuở chăn bò và cứ nghĩ: Bom đạn? Những kẻ đi tìm đồng đen? Hay chính Nợi đã đốt đền thờ Đức Thánh Mẫu?.
Không chỉ đền Thánh Mẫu thức dậy trong ký ức tôi mà không gian làng, phong vị, khí vị làng …tất cả những kỷ niệm với chốn quê đầy tre pheo suốt hơn hai chục năm gắn bó với tôi với bao nhiêu thử thách nghiệt ngã lần lượt hiện lên như một cuốn phim quay chậm: Một con sông, những cánh đồng lúa, đồng màu, những ngôi nhà sâm sẫm, cái đầm làng huyền tích rợn người, những mồ mả, ao chuôm, vạt lau hoa trắng, nhịp cầu tre, con bống con mương…những người nông dân chân thật đến ngờ nghệch, nhẫn tâm và tình nghĩa, nghèo đói mà luôn an bài thân phận, một thế hệ tuổi ấu thơ bị cái ác bủa vây, vừa ra khỏi vòng vây nghiệt ngã ấy thì chiến tranh, chạm mắt vào máu và nước mắt chia ly …Không gian làng, thân phận làng, thân phận người dân làng lần lượt hiện thành những con chữ trên màn hình máy tính, trên trang giấy đủ các cỡ. Nhiều truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết của tôi ra đời.
VIII. “QUÊ NHÀ NẮNG SỚM, MƯA MAI”
1.
Sáng ngày 21/8/ 1991, Hội Văn nghệ Nghệ Tĩnh tổ chức phiên họp BCH để thông báo chủ trương chia tách tỉnh và chia tách Hội. Ngay chiều ấy, trong không khí tách, chia nhộn nhạo, 4 người trong BCH Hội Văn nghệ Hà Tĩnh: Nhà thơ Xuân Hoài, nhà viết kịch Phan Lương Hảo, nhạc sĩ Vi Phong và tôi đã nhóm họp bàn việc tái lập Hội văn nghệ Hà Tĩnh và nhất trí cử nhà thơ Xuân Hoài làm Chủ tịch Hội, tôi làm Thường trực Hội.
Văn bản của tỉnh chỉ đạo nguyên tắc chia theo tỷ lệ ½: Hà Tĩnh 1, Nghệ An 2. Bấy giờ Hội văn nghệ Nghệ Tĩnh có 9 người quê Hà Tĩnh: Xuân Hoài, Đức Ban, Chính Tâm, Phan Trung Hiếu, Đào Phương, Tùng Bách, Hữu Lợi, Trần Văn Kính, Nguyễn Thị Tâm, (Đánh máy chữ). Nhưng 3 người xin ở lại Nghệ An là Đào Phương quê Hương Sơn, Quốc Anh, Trần Văn Kính quê Đức Thọ và Tùng Bách chuyển vào Vũng Tàu, Hữu Lợi đi Lâm Đồng. Rốt cuộc còn 5 người, trong đó chỉ 2 người là Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Có câu ca không biết do ai sáng tác lan truyền đây đó:“ Hà Tĩnh có mười nhà văn / Xuân Hoài là 1 Đức Ban là 10”. Đúng sự thật, một sự thật buồn tủi.
Đến sự chia tài sản thì không chỉ tủi thân mà là cay đắng. Hội Hà Tĩnh được 1 chiếc xe ôtô Toyota màu trắng cũ, 1 bộ bàn ghế salon, 1 tủ gỗ cao 1,6m rộng 1,2 m đựng tài liệu, 2 bộ bàn ghế làm việc,1 chiếc quạt đứng Hoa sen chớm rỉ, 3 bộ ấm chén và chiếc máy chữ Optima.
Ngày 4-9-1991, Xuân Hoài, Chính Tâm, Phan Trung Hiếu, Nguyễn Thị Tâm và tôi lên ô tô Toyota, qua phà Bến Thủy theo Quốc Lộ I thẳng về Hà Tĩnh. Hôm ấy mưa phùn, gió bấc. Không gian âm u. Chúng tôi gặp lại những vùng đất, những quãng đường từng gắn bó: Gia Lách, Bấn, Bãi Vọt, Ba Giang, Cày… mà sau 15 năm đã gần như thành xa lạ. Mỗi người theo tâm trạng riêng, không khí trong xe lặng tờ. Gần trưa thì xe vào đến trung tâm thị xã. Nhìn 4 phía thấy cảnh quan dường như vẫn như cuối năm 1976, ngày chúng tôi ra Vinh, nhỏ bé và dịu dàng. Mấy anh em chúng tôi đứng trước ngôi nhà của Công ty vật tư nông nghiệp thấp, dài như một toa tàu, mái ngói trồi trụt sẽ là trụ sở Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh không dấu nổi nỗi ngao ngán. Xuân Hoài vỗ vai tôi, nói: “Thiếu thốn, gian nan và không phải ngày một, ngày hai đâu. Thị xã phải gồng mình đón nhận 73 cơ quan, đoàn thể, tổ chức, đơn vị và 21/37 đơn vị sản xuất, kinh doanh với hơn 2.000 cán bộ, công nhân viên và lực lượng vũ trang. Chỗ ăn ngủ, rồi lương thực, thực phẩm, điện nước chưa thể đủ đầy được.”
Ngay chiều ấy, Phan Trung Hiếu, phụ trách văn phòng phân chia phòng ở. Phòng đầu, tính từ đường Phan Đình Phùng vào được ngăn đôi bằng một bức phên nứa; nửa ngoài Xuân Hoài ở, nửa trong tôi ở, cạnh đó là văn phòng Hội; tiếp theo Chánh văn phòng Trung Hiếu, ủy viên Ban thường vụ Chính Tâm, rồi Nguyễn Thị Tâm, Phan Thị Thái Hà, Lái xe Nguyễn Lương Phán và Bếp ăn tập thể. Hàng ngày 7 người ngồi quây quần bên mâm cơm. Cơm gạo trắng, độn mỳ hạt, thức ăn vô cùng đạm bạc: Cá đồng kho nghệ, dưa cải, cà pháo và rau, vô thiên lủng rau…Tất cả bày biện trên cái bàn gỗ mộc hình vuông. Như một gia đình.
Hai tuần sau, Ban chấp hành Hội tổ chức phiên họp lần thứ nhất, trong nhiều nội dung cần bàn và quyết định có việc chọn tên cho tạp chí văn nghệ Hà Tĩnh. Nhiều tên núi, tên sông, tên danh nhân được đưa ra: Sông La, Núi Hồng, Tùng Lĩnh, Tam Soa, Tiên Điền, Nguyễn Du, Nguyễn Phan Chánh… Sau nhiều trao đổi và tham khảo ý kiến các nhà văn, nhà hoạt động văn hóa trong và ngoài tỉnh, chúng tôi chọn Hồng Lĩnh tên một dãy núi từng được tôn vinh là Hoan Châu đệ nhất danh sơn làm tên Tạp chí Sáng tác nghiên cứu, phê bình của Hội Văn nghệ Hà Tĩnh.
Văn phòng Hội được mỗi 3 người làm nghiệp vụ, chúng tôi phải thành lập Hôi đồng Biên tập cho Tạp chí Hồng Lĩnh. Hội đồng gồm những người hoạt động văn hóa, văn nghệ quê Hà Tĩnh: Nhà Lý luận phê bình Hoàng Ngọc Hiến (Trường Đại học Văn hóa Hà Nội),G.S Lê Bá Hán (Trường Đại học Sư phạm Vinh), G.S Phong Lê (Viện trưởng Viện Văn học), G.SVũ Ngọc Khánh (Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam), nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh, nhà văn Xuân Thiều (Tạp chí Văn nghệ Quân đội), nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Thái Kim Đỉnh, nhà văn Chính Tâm, nhà viết kịch Phan Lương Hảo, nhạc sỹ Vi Phong, nhà nghiên cứu Lý luận phê bình Hà Quảng, Nghệ sỹ Nhiếp ảnh Sỹ Châu (Hội văn nghệ Hà Tĩnh).
Có một Hội đồng Biên tập bề thế như thế nhưng công việc cụ thể mỗi Xuân Hoài và tôi lo liệu. Chỉ riêng tháng 9 và 10 năm 1991, đã có 60 tác giả trong tỉnh và 70 tác giả ngoài tỉnh gửi bài về cho Hồng Lĩnh. Đầu tháng 12, Xuân Hoài cùng tôi ôm bản thảo, lên xe khách ra Hà Nội, nhờ Hữu Nhuận, Trưởng Ban thư ký Tòa soạn Báo Văn nghệ rà soát bài vở lần cuối. Cảm thấy an tâm, Xuân Hoài giao việc in ấn lại cho tôi, rồi nhảy xe khách về Hà Tĩnh.
Nửa tháng trời tôi ăn nhờ, ở đậu lúc thì nhà Hữu Nhuận, lúc thì nhà Từ Thành, Nửa tháng 12 đưa bản thảo và ma két vào nhà in Khoa học Kỷ thuật ở phố Nguyễn Khuyến. Trúng giai đoạn áp Tết nhà in chen chúc Lịch tờ, lịch Bloc, mãi ngày 16 tháng chạp Hồng Lĩnh mới in xong.
Vẫn cái xe cũ, xộc xệch, tài sản được chia ngày tách Hội, máy khật khừ, lốp mòn, ác quy quá hạn sử dụng. Xe xấu, đường xấu, trầy trật, bần bật mãi chập tối xe chở Hồng Lĩnh mới về đến sân cơ quan Hội.
Lúc ấy, tôi đã xúc động nghĩ rằng, sẽ không bao giờ quên được Hồng Lĩnh số 1. Đấy là đêm mưa phùn, lành lạnh áp Tết Nhâm Thân 1992.
Hồng Lĩnh số 1 cỡ 16 x 24, dày 86 trang, in xong và nộp lưu chiểu tháng 1-1992. Lời nói đầu, như là tôn chỉ mục đích của Tạp chí VHNT Hà Tĩnh có đoạn: “Hồng Lĩnh sẽ là diễn đàn văn hóa – văn nghệ của Hội văn nghệ tỉnh Hà Tĩnh- vùng đất sinh ra, nuôi dưỡng và lưu giữ những tâm hồn lớn như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Phan Huy Ích, Nguyễn huy Tự Võ Liêm Sơn, Nguyễn Phan Chánh, Xuân Diệu…Hồng Lĩnh là nơi gặp gỡ đầy tâm huyết với trách nhiệm công dân của văn nghệ sỹ vào sự nghiệp đổi mới của đất nước. Hồng Lĩnh cũng là đất thể nghiệm những sáng tạo VHNT vì con người của đội ngũ văn nghệ sỹ trong cả nước. Ra đời vào đầu Xuân Nhâm Thân, đúng vào lúc Đại hội Tỉnh Đảng bộ, Hồng Lĩnh càng nhận thức sâu sắc vai trò tất yếu của Đảng Cọng sản Việt Nam trong lịch sử dân tộc, trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong sự phát triển văn học nghệ thuật, khai thác tiềm năng văn hóa. Hồng Lĩnh sẽ chiến đấu cho sự nghiệp đổi mới của Đảng và nhân dân ta.
Hồng Lĩnh mong được làm chiếc cầu nối với các vùng văn hóa trong cả nước và chờ đợi sự đón nhân đầy mến mộ của bạn bè gần xa. Hồng Lĩnh sẽ luôn cố gắng để xứng đáng với tình cảm yêu thương ấy”
Ba tháng in xong Hồng Lĩnh số 2, chuyên đề Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Họa sỹ Nguyễn Phan Chánh…
Thời gian ấy, ngày nào chúng tôi cũng nhận được lời chúc mừng và góp ý rất chân thành của bạn đọc xa, gần. Chuyên mục Thư về Hồng Lĩnh của Tạp chí bao giờ cũng in kín hai trang. Xin trích một số lời trong hàng chục bức thư ấy.“Ngay số Hồng Lĩnh đầu tiên đã chứng tỏ các anh đã nắm trong tay khá nhiều yếu tố thành công. “Đối thoại” như thế là rất giỏi. Tôi đã đưa Hồng Lĩnh cho một số anh em đọc. Anh em rất hoan nghênh. Xin gửi lời chúc mừng đến anh em văn nghệ Hà Tĩnh” (Nhà thơ Giang Nam; Phó chủ tịch UBND tỉnh Khánh Hòa –Trích thư 12 -3- 1992).
“Tôi đã nhận được Tạp chí Hồng Lĩnh . rất mừng và rất hoan nghênh…Tôi rất ít dịp được về Hà Tĩnh, trừ mấy lần về thăm gia đình anh Phạm Ngọc Cảnh gần thị xã và gia đính anh Xuân Thiều bên sông La. Tạp chí gợi lên trrong tôi nhiều hình ảnh đẹp đẽ của tỉnh nhà qua những lần đó. (Vũ Cao- Nhà thơ, Hội Nhà văn Việt Nam –Trích thư ngày 8-4-1992).
“Đọc 2 số Hồng lĩnh thì thấy mấy điểm: In đẹp, bìa đẹp, giấy tốt, bài vở đậm màu sắc quê hương. Các cây bút phân nhiều đều là cây nhà lá vườn mà vì là cây nhà lá vườn nên lá vườn xum xuê, tươi tốt. Chúng tôi tin rằng Tỉnh ủy và UBND tỉnh tiếp tục tạo điều kiện cho Tạp chí ra đều, phản ảnh được mượt mà khí thế đang vươn lên của quê hương núi Hồng- Sông La” (Huy Cận, nhà thơ, Chủ tịch Hội liên hiệp VHNT Việt Nam).
“ Đã nhận được thư và tiền các ông gửi. Quý hóa quá. Nhà đang lúc túng. Cảm ơn phong cách làm báo cẩn thận, chu đáo của các bạn. Hôm Tết, anh Xuân Đài (Một người Hà Tĩnh khí khái ở Thành phố Hồ Chí Minh ) đi về quê ăn Tết có ghé Huế. Ngô Minh đưa Hồng Lĩnh ra khoe, thế là ông anh nằng nặc xin cho bằng được. Ngô Minh bảo:” Anh là dân Hà Tĩnh, anh phải mua mới phải”. Anh đồng ý mua bằng bia Hu đa. Một chầu bia lấy rẻ cũng ba chục ngàn. Đó là chiến công của Hồng Lĩnh số 1 do các bạn gửi cho Ngô Minh ở đất Huế” (Nhà thơ Ngô Minh- Phóng viên báo Thương Mại ở Miền Trung.)
“Tôi đã đọc một vài số Tạp chí. Tôi rất mừng và xin gửi lời khên ban quản lý và các cộng sự và các nhà văn cộng tác. Sau đây tôi xin tặng một bài tôi viết từ năm 1940, nếu quý hữu muốn sử dụng trong tạp chí, tôi xin bằng lòng. Tôi cũng muôn mua đều các số Hồng Lĩnh, gửi bằng Bưu điện. Nếu được tôi sẽ bảo bà con bên nhà trả tiền mua. Chúc quý Tạp chí thịnh vượng” (G.S Hoàng Xuân Hãn- Pari- Pháp).
Hơi nóng của không khí đổi mới đang nguội dần, Dẫu đang giữa một đời sống xã hội bề bộn, ngổn ngang với bao nhiêu thân phận khổ đau, chìm nổi nhưng Hồng Lĩnh vẫn giữ được sự lành mạnh, trữ tình. Ít có những tác phẩm quan tâm tới những vấn đề ngổn ngang, bết bát của hiện thực như truyện ngắn Chí phèo tìm họ của Thái Vĩnh Linh, Khẩu súng mệt mỏi của Nguyễn Quang Thân …Không phải chúng tôi không in mà là không có để in. Về sau Tạp chí hồng Lĩnh liên tiếp xuất hiện những truyện ngắn hay của Phan Cung Việt, Phan Cao Toại, Xuân Thiều, Nguyễn Quang Lập, Trần Thanh Hà, Quý Thể, Lê Minh Khuê…Lý luận phê bình thì Hoàng Ngọc Hiến, Lại Nguyên Ân, Nguyễn Xuân Đức, Phong Lê, Vũ Ngọc Khánh, Thái Kin Đỉnh…Thơ thì Huy Cận , Xuân Diệu, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngô Minh, Nguyễn Trọng Tạo Hoàng Trần Cương…
2.
Tôi và vợ bàn với nhau bán ngôi nhà 2 gian tại Khu tập thể Hội Văn nghệ Nghệ Tĩnh lấy tiền xây nhà ở thị xã Hà Tĩnh để chuyển gia đình vào. Cha ông bảo “Tam thập nhi lập”, lại bảo “an cư, lạc nghiệp”. Nghiệp thì chẳng biết thế nào là “lạc” nhưng gắng cho cái “cư” nó yên.
Tôi quyết tâm làm nhà. Lê Duy Văn, nguyên Thiếu tá Quân đội về cơ quan Hội hồi đầu năm, chủ động đi gặp “Thầy phong thủy” nào đó ở tận Hưng Dũng, Thành phố Vinh, chọn 2 giờ ngày 22 tháng 3 năm 1994 động thổ. Tôi vừa làm nhà vừa lo soạn thảo điều lệ Giải thưởng Nguyễn Du lần thứ 3, Báo cáo tổng kết cuộc thi Truyện ngắn và Bút ký trên Tạp chí Hồng Lĩnh. Vợ con thì đang ở Vinh, việc làm nhà đều nhờ bạn bè và anh em trong cơ quan giúp đỡ. Trần Danh Đàn Giám đốc Nhà máy Gạch Thuận Lộc cho ô tô chở gạch vào, Võ Minh Châu thuê ô tô chở gỗ từ Kỳ Anh ra, Phan Tùng Lưu chở đá hộc từ Kẻ Treo vào, rồi gạch, xi măng, sắt thép…Bấy giờ đường 35 mét còn thưa vắng, nhà xen với ruộng lúa. Lê Duy Văn, Phạm Việt Thư, Nguyễn Lương Phán, Nguyễn Văn Hùng, Bùi Quang Thanh… dựng lều ngay trên nền nhà và đêm đêm thay nhau canh gác vật liệu, ban ngày thì giám sát kỷ thuật thi công. Cuối tháng 7 thì xây xong nhà. Hàng chục năm sau và cả bây giờ, mỗi lần nhìn nhà cửa, tôi lại bồi hồi nhớ bè bạn một thời sống với nhau thật tình nghĩa, giúp nhau thật vô tư.
Ngày ấy tôi tròn 45 tuổi. 25 năm qua 5 lần sửa nhà, chuyển nhà, làm nhà!
Làm xong nhà, tôi chuyển vợ con từ Vinh vào Hà Tĩnh. Xưa, từ Vĩnh Lộc ra Vinh, 5 người lỏng lẻo trong cái thùng xe tải, nay thì 4 người và cũng lỏng lẻo trong thùng xe tải. Vợ tôi được phòng Giáo dục Thị xã nhận về dạy ở Trưởng tiểu học Thạch Quý. Con trai đầu Phạm Đức Sơn vào học lớp 11, con trai thứ hai vào học lớp 8 Trường Phan Đình Phùng.
Những năm ấy không khí văn nghệ ở Hà Tĩnh lành mạnh, sôi nổi. Hội văn nghệ và Tạp chí Hồng Lĩnh thành một địa chỉ văn hóa tinh thần của nhiều người. Nhiều cây bút có tên tuổi xin về công tác ở Hội. Năm 1992 có Nguyễn Xuân Hải (Báo Hà Tĩnh), năm 1993 là Sỹ Châu Thông tấn xã Việt Nam, năm 1994 là Nguyễn văn Hùng (Khoa Văn, Đại học Sư phạm Vinh), Phạm Việt Thư (Hội Văn nghệ Nghệ an), Năm 1995 là Bùi Quang Thanh (Sở Giao thông vận tải), Võ Minh Châu (Giao viên, Phòng Giáo dục Kỳ Anh), Lê Duy Văn (Quân đội), rồi Phan Tùng Lưu (Công ty Đường 1)...
Cơ chế thị trường hàng ngày tác động dữ dội vào đời sống, sự bất công trong thu nhập của bộ phận cán bộ công chức ngày càng lộ rõ. Nhuận bút không đủ tiêu vặt và ăn sáng. “Cơm áo không đùa với khách thơ”, tâm huyết với văn chương, yêu Hội, yêu Tạp chí Hồng Lĩnh nhưng một số người vẫn phải dứt áo ra đi, tìm bến đỗ mới. Sau Đại hội Hội VI của Hội, năm 2000, nhà văn Chính Tâm xin nghỉ hưu trước tuổi, tiếp đó, năm 2021, Nguyễn Văn Hùng về Sở Văn hóa Thông tin Nghệ An, năm 2002, Phạm Việt Thư chuyển ra Báo Nông nghiệp Việt Nam, năm 2003, Bùi Quang Thanh sang Báo Bảo vệ Pháp luật, rồi Võ Minh Châu ra Báo Tiền Phong, Phan Tùng Lưu về Văn nghệ Trẻ.
Dàn tác giả có uy tín nghề nghiệp vơi dần. Một sự trống vắng trong đờì sống văn chương nghệ thuật. Cơ quan Hội tiếp nhận Nguyễn Thị Nguyệt từ Trường Chuyên văn Đà Nẵng về, Quỳnh Nga và Hải Vân sinh viên Khoa Văn Đại học Vinh tốt nghiệp bằng đỏ. Hoài Thanh, cử nhân Hán Nôm.
Rất may, trước lúc rời khỏi Hội dàn tác giả có năng lực chuyên môn kể trên đã thêm dàn tác giả trẻ mới về cùng Ban chấp hành Hội đã kịp làm xong công trình khoa học nghiên cứu văn học Hà Tĩnh thế kỷ XX, nhằm góp phần tổng kết 100 năm văn chương Hà Tĩnh.
3.
Năm 1998, Ban Thường vụ Hội quyết định làm hai tuyển tập Văn xuôi và Thơ. Tôi nhảy tàu ra Hà Nội lo việc thành lập Hội đồng biên tập. Sau khi gặp trực tiếp từng người, một Hội đồng Biên tập được thành lập gồm: Nhà LLPB Ngô Vĩnh Bình, Nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh, Nhà Nghiên cứu Văn hóa Thái Kim Đỉnh, Nhà thơ Xuân Hoài, nhà thơ Lê Thành Nghị, nhà văn Nguyễn Quang Thân, nhà văn Xuân Thiều, nhà thơ Nguyễn Ngọc Phú và tôi. Bấy giờ nhà thơ Xuân Hoài đã sang làm Giám đốc Sở Văn hóa Thông tin nên công việc làm Tuyển do anh em ở Hội văn nghệ đảm đương.
Tuyển tập Văn Thế kỷ XX họp mặt 32 nhà văn Hà Tĩnh từ Hoàng Ngọc Phách sinh năm 1896 đến Như Bình sinh năm 1972. Lời nói đầu Văn Hà Tĩnh Thế kỷ XX do GS Phong Lê chấp bút. “Trong tôi biết bao điều muốn được trang trải lên mặt giấy khi trước mặt là bộ Tuyển 100 năm Văn xuôi thu nhỏ của đất quê.100 năm đầy biến động và bất ngờ như chưa từng diễn ra trong lịch sử. 100 năm mà mỗi chặng đường của nó là một bước ngoặt, một nhảy vọt mà người trong cuôc cũng ít ai có thể hình dung nổi. Cuối thế kỷ trước sau hy sinh của lãnh tụ Cần Vương Phan Đình Phùng (1895), tôi nghĩ đến những nhà Nho trong phong trào Duy Tân. Rồi tiếp đến la thế hệ có cả Nho học và Tây học với gương mặt tiêu biểu là Võ Liêm Sơn. Sau Võ Liêm Sơn là Hoàng Ngọc Phách - nghiêng về Tây học. Và sau Hoàng Ngọc Phách là Phạm Khắc Hòe và Nguyễn Tạo, Hoàng Xuân Hãn và Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Đổng Chi và Xuân Diệu…Một sự nối dài, cứ thế, càng về sau càng dồn dập, càng đông cho đến cuối thế kỷ.Dường như nguồn mạch trữ tình vốn lúc nào cũng dào dạt trên mảnh đất Lam Hồng, vẫn không chút vơi cạn khi chuyển sang thế kỷ XX, để làm dấu ấn riêng của Xứ Nghệ (Tên gọi chung của Nghệ Tĩnh); trong đó không cần phải tinh tế lắm cũng có thể nhận ra dấu ấn riêng của Hà Tĩn, dải đất trải từ bờ Nam sông Lam đến chân Đèo Ngang. Nơi đã làm nên sự khởi động và đưa lên đỉnh cao của dong văn trữ tình –Lãng mạn với Hoàng Ngọc Phách và Xuân Diệu cũng là nơi không vắng thiếu tiếng nói thật của Ngạc Am, cùng tầm quảng bác và chiều sâu học thuật nơi Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Đổng Chi, Nguyễn Khắc Viện…Có phải 100 năm Văn xuôi Hà Tĩnh đi – về trên cả hai bờ ấy là hội tụ vào trong lòng nó cả hai nguồn mạch ấy!.Như thói quen thường có, tôi gắng nhẩm cho đủ những tên tuổi quen thuộc từng đi trước, từng đồng hành, hoặc đến sau mình trong hành trình của cách mạng và hai cuộc kháng chiến đã qua. Những tên tuổi bao giờ cũng gợi một niềm thương mến riêng, một sự gắn bó riêng, chỉ có thể giải thích bằng tình quê hương trong cái nghĩa thật thắm thiết và cụ thể của nó. Cái danh sách ấy tôi tin là không mờ nhật, thậm chí còn đậm nét so với bất cứ đâu. Họ- những người từng viết về đất quê hoặc không phải chỉ viết về đất quê; họ - một đời thường xuyên đi – về với đất quê hoặc luôn phải xa quê. Mỗi người một hoàn cảnh, nhưng theo tôi, có lẽ không ai không khao khát và mong mỏi, qua những trải nghiệm riêng mà tìmđến những vấn đề có ý nghĩa nhân sinh và thế sự trong sự sinh tồn của đất nước và con người.(…)Mong cho quê nhà một đời sống vật chất và tinh thần xứng đáng với những cần lao và nỗ lực của con người- những con người dường như không thời nào, không thế hệ nào vắng thiếu tiềm năng văn thơ”.
Tuyển Thơ Hà Tĩnh thế kỷ XX tập hợp 120 tác giả, từ Đậu Quang Lĩnh sinh năm 1870 đến Đinh Thu Hiền sinh năm 1974. Lời nói đầu Tuyển tập Thơ Hà Tĩnh do nhà thơ Huy Cận viết, nguyên văn như sau:“Việt Nam là đất Thơ, Hà Tĩnh là đất Thơ. Cha ông ta thường nói:” Giang sơn tụ khí” không chỉ theo nghĩa địa lý phong thổ mà theo trầm tích văn hóa giống nòi qua các thời đại ở từng vùng và cả đất nước. Không phải ngẫn nhiên mà đất Kinh Bắc sinh ra Cao Bá Quát, Hà Nam sinh ra Nguyễn Khuyến, thành Nam sinh ra Tú Xương…Đất Thăng Long sinh ra Hồ Xuân Hương. Nhắc đến miền Trung thì “Giang sơn tụ khí”sinh ra Đặng Dung, Phan Kính, Nguyễn Du, Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Công Trứ ở Hà Tĩnh. Bình Định sinh ra Đào Tấn, Nam Bộ sinh ra Nguyễn Đình Chiểu, Trịnh Hoài Đức, Học Lạc…Thế kỷ XX thơ Việt Nam có bước phát triển vượt bậc từ Nguyễn Khuyến, Tú Xưng Tản Đà, Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu, Võ Liêm Sơn, đến các nhà “ thơ mới”. Riêng Hà Tĩnh đã góp vào phong trào thơ mới với nhiều thơ xuất sắc hàng đầu : Xuân Diệu, Huy Cận, Thái Can. Các nhà thơ mới còn tiếp tục sáng tác đồi dào sau cách mạng. Sang kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, có cả hai ba thế hệ thơ tiếp nối. Hà Tĩnh còn là đất duyên thơ. Nhiều bạn không phải quê Hà Tĩnh nhưng yêu đất Hồng Lĩnh đã có những bài thơ hay. Phải chăng thơ Hà Tĩnh đằm thắm tình quê hương, sâu lắng tình đời và canh cánh bên lòng thân phân con người ở quê nhà và trong dòng thời đại. Chắc hẳn thơ Hà Tĩnh sẽ tiếp thu được tinh thần nhân bản sâu đậm của giống nòi”.
Tháng 2 năm 1999 thì in xong cả hai tuyển tập. Tháng 3 năm ấy, tôi nhận Quyết định đi học lớp Chính trị Trung- Cao cấp ở Học viện Quốc gia Hồ Chí Minh. Lần thứ hai tôi làm sinh viên. Lần thứ nhất 3 năm tròn sinh viên Trường Viết văn Nguyễn Du và lần này sẽ là 10 tháng. Ban ngày lên lớp, đêm tôi viết kịch bản La sơn Nguyễn Biểu cho Nhà hát Tuồng Việt Nam. Kịch đề cập cuộc kháng chiến chống giặc Minh của Điện tiền Thái sử Nguyễn Biểu, một vị tướng tràn đầy nghĩa khí cùng các nghĩa sỹ thời hậu Trần (1409 – 1413). Cuối năm ấy Nhà hát Tuồng công diễn La Sơn Nguyễn Biểu. Cũng vào những ngày ấy, Truyện ngắn Sông nước của tôi được giải B giải thưởng cuộc thi Truyện ngắn cuối thế kỷ (1998-2000) của Báo Văn nghệ Hội nhà văn Việt Nam.
Bấy giờ con trai đầu của tôi đang học năm thứ ba Học viện Báo chí Tuyên truyền, con thứ hai học năm thứ nhất Đại học Kiến Trúc, vợ thì dạy học ở Hà Tĩnh, hoàn cảnh gia đình không khổ cực như ngày xưa tôi đi học Trường viết văn Nguyễn Du, nhưng cũng không ít gian nan. Nhuận bút Kịch và tiền thưởng Truyện ngắn đã giúp vợ và con trai học Đại học qua “cơn bỉ cực” được chừng nửa năm.
3.
Tốt nghiệp Trường Nguyễn Ái Quốc, tôi trở về Hội văn nghệ Hà Tĩnh. Bấy giờ tỉnh đang chuẩn bị cho Đại hội Tỉnh Đảng bộ. Một hôm, tôi không nhớ rõ ngày tháng, theo chỉ đạo của Tỉnh ủy, tôi tổ chức họp đột xuất Ban chấp hành Hội Văn nghệ Hà Tĩnh để lấy phiếu tín nhiệm giới thiệu tôi vào Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh.
Thời gian ấy, Hội viên Hội văn nghệ Hà Tĩnh có hai người là Tỉnh ủy viên Xuân Hoài và Lê Duy Phương. Sự ấy là hiếm ở các Hội văn nghệ địa phương. Hai ông cùng thế hệ nhà văn chống Mỹ, đã cùng nhận giải thưởng trong cuộc thi Thơ của Báo Văn ngh, Hội nhà văn Việt Nam. Bài “Những ngôi sao” của Xuân Hoài giải Ba, bài “Nơi giấu xe” của Lê Duy Phương, giải Khuyến khích. Ông Phương làm Giám đốc Sở Kế hoạch Đầu tư, ông Hoài Chủ tịch Hội văn nghệ, về sau sang làm Giám đốc Sở Văn hóa, Thông tin. Lê Duy Phương cởi mở, hòa đồng có chút suồng sã, nắm giữ kế hoạch Kinh tế xã hội của tỉnh và dĩ nhiên đi cùng kế hoạch là ngân sách nhà nước. Ở phạm vi nào đó ông ta quyết định được kế hoạch và tiền hoạt động của thiên hạ. Xuân Hoài thì chu đáo, cẩn thận đến tỷ mỷ, quản lý mấy chục triệu đồng ngân sách hàng năm của Hội văn nghệ và Tạp chí Hồng Lĩnh.
Một Lê Duy Phương đi nhiều, quay ngang quay dọc trong các mối quan hệ chính trị, kinh tế, hành chính. Ông tiếp xúc với cả Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ ướng Chính phủ, các chính khách ngoại giao, giao lưu với thương nhân, văn nghệ sỹ, sinh viên, học sinh…Ông làm nhiều thơ, thơ thiếu nhi, thơ người lớn, thơ ngắn, trường ca, in hết tập này đến tập khác. Và làm quan.
Một Xuân Hoài ở trong căn nhà nhỏ chật chội cạnh đường phố ồn ào, bụi bặm và thiếu thốn nhiều thứ. Bản chất thi sỹ đã khiến ông không ít khi ngơ ngác trước mọi sự nhốn nháo của cuộc đời. Tôi hình dung một Xuân Hoài thổn thức, day dứt, run rẩy trước mỗi con người, mỗi sự việc và một Xuân Hoài nghiêm cẩn, rành mạch trước đám đông nơi công sở. Và tôi nhận ra mâu thuẫn giữa hai ông tồn tại năm này sang năm khác chỉ là sự xung khắc của hai loại tính cách chứ chẳng phải vì quan niệm về văn chương .
Sự xung khắc tính cách có khi đẫn tới thù ghét. Xuân Hoài và Lê Duy Phương là một trường hợp đáng tiếc. Mối quan hệ hai nhà thơ ấy đã liện lụy tới tôi. Mối quan hệ Có và Không. Lê Duy Phương có ủng hộ thì Xuân Hoài không. Tôi đã bị kẹt giữa hai tính cách ấy như trước kia kẹt giữa giữa phái Minh Huệ và Trần Hữu Thung. Trước kia tôi nói ở đây là thời gian tôi còn ở Hội Văn nghệ Nghệ Tĩnh. Trước đó nữa, năm 1959, hai nhà thơ lớn ở Nghệ An, Minh Huệ tác giả bài thơ Đêm nay Bác không ngủ, Trần Hữu Thung tác giả Thăm lúa, đã không chịu nhau. Đại hội 1 Hội văn nghệ không chọn được người đứng đầu, Trung ương đành điều nhà văn Bùi Hiển, quê Quỳnh Lưu vào làm Hội trưởng. Minh Huệ và Trần Hữu Thung làm Phó Hội. Cuối thập niên 70, đầu 80 của thế kỷ trước, thời tôi ở Hội văn nghệ Nghệ Tĩnh, quan hệ “bằng mặt không bằng lòng” của hai ông vẫn cứ nặng nề. Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh phải cử đoàn công tác về Hội văn nghệ giải quyết mâu thuẫn nội bộ. Sau 10 ngày làm việc, Đoàn Kiểm tra về Tỉnh ủy, mọi chuyện đâu lại vào đó. Văn phòng Hội chia làm hai phái; một về “phái” Trần Hữu Thung, một về “phái” Minh Huệ. Tôi được xếp vào phái Minh Huệ và chịu liên lụy đầu tiên là những phê phán tư tưởng lệch lạc của tôi trong Truyện ngắn Hàm lượng phù sa in ở Báo Lao động của Tổng Liên đoàn Lao động Việt nam và trong Giám đốc miền rừng in ở Báo Văn nghệ Hội nhà văn Việt Nam.
Trước Đại hội Tỉnh Đảng bộ lần thứ XV (2000), tôi kẹt giữa hai nhà thơ Xuân Hoài và Lê Duy Phương. Bắt đầu và cũng là kết thúc tại phiên họp Ban chấp hành Tỉnh ủy bỏ phiếu chọn 53 ủy viên BCH Tỉnh ủy trong số 80 người trong danh sách giới thiệu thì tôi bị loại ra ngoài. Lê Duy Phương và một số tỉnh ủy viên chọn tôi, Xuân Hoài thì không. Rồi mọi chuyện trôi qua.
5.
Mấy năm sau, một sáng “mưa chọi trâu”, Nguyễn Quang Tiệng, điện thoại cho tôi nói, Ban bầu cử HĐND các cấp chọn lựa tôi đưa vào danh sách Đại biểu HĐND tỉnh nhiệm kỳ 2004 -2009. Tôi hỏi, thế thì tôi phải làm gì? Nguyễn Quang Tiệng bảo, làm bộ hồ sơ ứng cử. Gặp tôi, cụ thể thêm. Nguyễn Quang Tiệng là Tổng đội phó, thủ trưởng của tôi thời ở 299. P18. Giải thể Thanh niên xung phong anh chuyển vào Mặt trận Tổ quốc tỉnh với chức danh Phó Chủ tịch. Hôm sau tôi gặp Nguyễn Quang Tiệng. Hôm sau nữa thì hoàn tất hồ sơ ứng cử. Nhóm người ứng cử ở huyện miền núi Hương Khê, ngoài tôi có Nguyễn Thiện, Giám đốc Sở Kế hoạch đầu tư, Võ Trọng Việt, Chỉ huy trưởng bộ đội Biên phòng, Nguyễn Thị Nguyệt, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh và Lê Thị Tập, Bí thư Huyện ủy Hương Khê.
Tôi đã nhiều lần lên huyện miền núi Hương Khê. Lần đầu tiên, tôi vào Khiêm Ích, vượt truông Thổ Hoàng vào rừng lấy củi về bán ở chợ Nhe, lần thứ hai và lần thứ ba thời ở TNXP, ngồi trong thùng xe tải đi mua lá tro cho Tổng đội 299.P18 xây dựng trụ sở mới ở Thạch Long. Lần thứ 4, tôi cùng nhóm phóng viên Tạp chí Hồng Lĩnh lên Hương Khê thực tế, viết bài cho chuyên mục “Chuyện dài viết ngắn”, đang được dư luận quan tâm. “Chuyện dài viết ngắn” lần ấy kể về những khuất tất trong Dự án cải tạo hồ Bình Sơn ngay trước cơ quan Huyện ủy, UBND huyện. Và nay là lần thứ 5 tôi lên Hương Khê ra mắt cử tri. Ra mắt cử tri nghĩa là tiếp xúc với nhân dân một địa phương nào đấy do Ban Bầu cử huyện chọn. Trong buổi tiếp xúc, người ứng cử nói lên kế hoạch hoạt động của mình trước mắt và lâu dài; tức là anh phải gieo vào lòng người dân tình cảm thân thiện và lòng tin tưởng tuyệt đối.
Hương Khê thuộc vùng sâu, vùng xa, chỉ mỗi con đường độc đạo, đất đỏ, trồi trụt dài ba chục km xuyên rừng núi thông thương với miền xuôi. Không cần đi thực tế cũng biết miền quê này cần gì. Hôm ấy tôi nói nhiều, hứa nhiều. Rằng tôi sẽ thế này, thế kia. Rồi cuối cùng, tôi nói:” Nếu bà con bỏ phiếu bầu tôi vào Hội đồng nhân dân tỉnh, tôi sẽ phấn đấu làm một người tử tế.”.Cụm từ “làm người tử tế” đã khiến tôi suýt phải trả giá. Gần 20 năm sau từ “Tử tế” mới được nhiều người dùng, từ dân thường đến Thủ tướng Chính phủ, còn vào năm 2004 ấy, đã tạo nên một làn sóng dư luận. Thế bỏ phiếu cho ông ta rồi ông ta mới phấn đấu làm người tử tế à? Ông K. Bí thư Huyện ủy, chưa quên chuyện dài viết ngắn về hồ Bình Sơn đã gửi công văn xuống Hội đồng Bầu cử tỉnh đề nghị xem xét lại tư cách, phẩm chất của tôi. Phải qua mấy cuộc họp chuyện làm “người tử tế” mới “tử tế” được.
Nhiệm kỳ HĐND 2004 -2009 kéo dài thêm 2 năm, đến giữa năm 2011, tôi mới thôi làm Đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh, tính ra tròn 7 năm. Trong bảy năm ấy, tôi đã 15 lần tiếp xúc cử tri, báo cáo tình hình kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng của tỉnh, những việc đoàn Đại biểu ứng cử ở Hương Khê đã làm, sẽ làm, giải đáp những thắc mắc của cử tri về các vấn đề của đời sống. Sau này nghĩ lại, không có gì mới mẻ trong 15 lần gặp gỡ với những người dân thân thiện, dễ tin và đầy lòng bao dung. Tôi vẫn lên Hương Khê trên con đường đất đỏ đầy ổ voi, ổ gà, mùa khô bụi đất mù mịt, mùa mưa bùn lầy thụt. Bao nhiêu lời hứa của tôi với cử tri trong 15 lần ấy, không ít lời, vì nhiều lý do, không thực hiện được và mãi về sau nó cứ day dứt trong lòng tôi như một mặc cảm dối lừa…
Tháng 6 năm 2024, tại kỳ họp HĐND tỉnh, Trần Đình Đàn, Phó Chủ tịch UBND tỉnh trúng Chủ tịch UBND tỉnh, Tháng 10 năm ấy, Bí thư Tỉnh ủy Đặng Duy Báu nghỉ hưu, Trần Đình Đàn được cử giữ chức vụ Bí thư Tỉnh ủy. Ông là người quý trọng anh em văn nghệ sỹ từ hồi còn làm Bí thư tỉnh đoàn. Vừa nhận chức ông đã quyết định chọn người làm Giám đốc Sở Văn hóa Thông tin thay cho Nguyễn Đình Đạt chuyển công tác khác. Và ông đã cùng Ban Thường vụ quyết định chọn một nhà văn là tôi cho dù tôi đã 56 tuổi không đủ thời gian công tác một nhiệm kỳ theo quy định của Đảng.
Ngày 29- 12- 2004, Tỉnh ủy cứ chị Nguyễn Thị Tuấn, Phó ban Tổ chức Tỉnh ủy đến Sở Văn hóa - Thông tin công bố quyết định của Chủ tịch UBND tỉnh điều động, bổ nhiệm tôi làm Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin Hà Tĩnh.
Vậy là, 35 năm làm văn nghệ ở Hội văn nghệ Hà Tĩnh, Hội văn nghệ Nghệ Tĩnh rồi lại Hà Tĩnh, trải bao buồn, vui thành đạt, thất bại. Trong 35 năm ấy, có 20 năm tôi làm Phó rồi Chủ tịch Hội, quản lý 12 cán bộ trong văn phòng và gần 200 Hội viên thuộc 9 chuyên ngành:Văn xuôi, thơ, Lý luận phê bình, văn nghệ dân gian, ậm nhạc, mỹ thuật, nhiếp ảnh, kiến trúc, múa, mỗi năm tiêu của nhà nước trong, ngoài 100 triệu đồng. Từ mồng 1 tháng 1 năm 2005, tôi thành quan chức Văn hóa Thông tin quản lý 9 đơn vị trực thuộc: Trường Văn hóa, Nghệ thuật, Đoàn Ca, múa, kịch, Trung tâm Văn hóa, Thông tin, Công ty chiếu bóng, Công ty in, Công ty phát hành sách,, Thư viên, Bảo tàng, 3 Khu Lưu niệm: Nguyễn Du, Tổng Bí thư Trần Phú, Tổng Bí thư Hà Huy Tập và Văn phòng Sở. Hàng năm nghe bảo ngân sách lên đến bảy tỷ đồng...
Chuyện gì sẽ xẩy ra khi đảm đương vai trò Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin? Chuyện gì sẽ xẩy ra trên con đường sáng tạo văn chương đã thành cái nghiệp của cuộc đời tôi?
Và còn những chuyện gì nữa?
Lúc này là lúc nửa đêm về sáng một ngày se se lạnh đầu năm 2005!
IX. NGOẢNH NHÌN LẠI.
Tôi viết những dòng này vào đầu tháng 12 năm 2005, sau 40 năm kể từ ngày mẩu chuyện “Âm thanh sáng sớm” trong chuyên mục “Gương người tốt, việc tốt” in cuối trang 4 tờ “Tiếng loa chống Mỹ” của Ty thông tin Hà Tĩnh, năm 1966; 31 năm kể từ cuốn sách đầu tiên “Mưa rừng”, được Hội văn nghệ Hà Tĩnh xuất bản năm 1975, và 29 năm kể từ Truyện ngắn đầu tiên in trên Báo Văn nghệ của Hội nhà văn Việt Nam với cái tên rất quê: “Truyện ở một trại chăn nuôi”. Hơn nửa thế kỷ sống và lao động, trải qua bao thăng, trầm thời cuộc với bao đận gian nan, buồn khổ và những hiển đạt. Cuộc đời thăng trầm đã cho tôi thật nhiều trải nghiệm. Những trải nghiệm lưu giữ lại trong ký ức đã nuôi sống đời văn chương của tôi.
Thật khó nói trong, ngoài ngàn trang sách đã in kia, trang nào còn lại với đời, trang nào rơi rụng chìm vào quên lãng. Đọc lại những tác phẩm trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước, tất cả cho độc lập dân tộc, phụng sự cái “Ta”, quên đi cái “Tôi”; thời kỳ Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa là khuynh hướng chủ đạo của văn chương nghệ thuật; thời kỳ đổi mới, chú trọng thế sự và cá nhân con người…đều gặp những trang, những dòng khiến tôi xúc động đến rơi nước mắt và cũng không ít những trang, những dòng chỉ muốn xé bỏ vì sự ngây thơ, hời hợt của mình.
Không biết mai sau bao nhiêu dòng chữ của tôi ở lại trong trí nhớ người đọc, nhưng lúc này, những ngày đầu của tuổi 61, tôi vui mừng tự bằng lòng với những nỗ lực của bản thân trên con đường đời gập ghềnh, khúc khuỷu làm nên những trang văn thấm đượm tình yêu đất nước mình, nhân dân mình, gia đình mình, anh em bè bạn xa, gần của mình./.
Mùa Đông, 2005
Bình luận