logo

Truyện ngắn

LA SƠN NGUYỄN BIỂU & LỬA NGÀ TRƯƠI

“ Khí phách hiên ngang, vạn kiếp giặc Minh còn khiếp đảm Danh nhân tuấn kiệt, muôn phương dân Việt mãi tôn thờ” “Anh hùng thành bại kể chi? Dạ sắt son, lòng vàng đá, thề cùng các bạn giữ trước sau. Mặc Châu đúc khí tinh anh, trung hiếu hẹn hò cùng sử sách”…


LA SƠN NGUYỄN BIỂU

NHÂN VẬT

(Theo thứ tự xuất hiện)

Nguyễn Biểu  50 tuổi, Điện tiền thị ngự sử

 triều Hậu Trần (1409 - 1413)

Người hầu

Nguyễn Thị Hộ      Vợ Nguyễn Biểu

Đặng Dung    Đồng bình chương sự

Lính 1

Lính 2

Quang văn

Trùng Quang        Vua Hậu Trần, cháu Giản Định Đế

Trần Chưởng   Cháu vua Giản Định Đế

Quan đình thần

Nguyễn Trực  13 tuổi (con Nguyễn Biểu)

Lính 3

Lính 4

Trương Phụ   Tướng giặc Minh

Phan Liêu      Hàng Thần

Người chèo đò

(Một số lính và cung nữ khác)

I

Mùa thu năm Mậu Tý (1408). Một ngày tháng chín. Trong nhà Nguyễn Biểu. Giữa là bàn thờ họ Nguyễn, có hoành phi, câu đối sơn son thếp vàng. Dưới bàn thờ, giữa nhà kê một cái án thư. Trên án thư có sách, đèn dầu lạc. Vài cái ghế xếp chung quanh.

Nguyễn Biểu mặc áo dài đen, đầu chít khăn, ngồi cạnh án thư.

Bên ngoài gió thổi ào ào, thính thoảng một tia chớp lóe sáng, trông rõ những cái song cửa số phía bên trái và những tàu lá chuối ướt nước sáng láng.

Nguyễn Biểu: (Đứng dậy, tay cầm bút lông, đi đi lại lại trong phòng).

Đêm qua mưa gió rụng.

Một trời sâu mịt mù.

Thức cùng ngọn đèn rạng.

Mới hay lạnh hơi thu.

Lòng đau khô giọt lệ...

Người hầu: (Từ ngoài vào) - Ông ơi ! Có chuyện nguy lắm ạ.

Nguyễn Biểu: - Chuyện nguy chẳng hiếm; bình tĩnh nói ta nghe nào.

Người hầu: - Nước sông La dâng lâu mỗi to, ngoài bãi nhiều chỗ đã ngập. Khắp chốn bong bóng xoáy sùng sục. Thôi thì là rắn, là rết, là kiến, là nhái kéo đàn, kéo lũ vào làng.

Nguyễn Biểu: - Ấy là chuyện sinh tồn. Chúng đi tìm chỗ sống đó thôi.

Người hầu: - Ông nói về ai vậy ạ?

Nguyễn Biểu: (Cười) - về rắn, về kiến, về nhái ấy...

Người hầu: - Nước lũ thì làm sao ạ ?

Nguyễn Biểu: (Xòe tay, bấm đốt) - Giờ ngọ trời sẽ ngớt mưa, hửng nắng và nước sẽ rút. Con đừng lo.

Người hầu: - Ôi, trời ạ ! Con mà được như ông thì...

Nguyễn Biểu: - Thì làm sao ?

Nguời hầu: - Con không biết, vì con không được tài giỏi, đức độ như ông. Cơ mà... (Nhìn Nguyễn Biểu vẻ e dè) Con sẽ dọc ngang một chuyến.

Nguyễn Biểu: - Giỏi ! Giỏi lắm ! Cứ tu dưỡng cái tâm, học và hành cái lẽ lý của người xưa, người nay rồi con sẽ như ta.

Người hầu: (Lắc đầu) - Con tăm tối mặt mũi còn đọc, học nỗi gì. Nào lợn, nào gà, nào củi, nào đuốc, nào cuốc, nào cào... Rồi cấy, gặt, nhặt cỏ, bỏ phân, cân khoai, cào hến, chuyển củi, gánh than, đưa hàng lên chợ... Dạ... Con xin ông, con lỡ cái mồm cứ dông dài hoa kèn, hoa súng...

Nguyễn Biểu: (Đặt tay lên vai người hầu) - Không sao ! Ngươi cứ nói tiếp đi, ta đang học điều ngươi nói đây. Ngươi học ta, ta học ngươi. Kẻ sĩ là người biết làm học trò thiên hạ.

Người hầu: - Bà cũng nói với con vậy. (Nhìn Nguyễn Biểu) Ông ơi ! Bà là người đàn bà có một không hai ở xứ La Sơn này phải không ạ ?

Nguyễn Biểu: - Ngươi thấy thế ư ?

Người hầu: - Dạ. Bà thương cậu Trực nhé, yêu ông nhé, thu vén việc nhà đâu vào đó nhé, đối xử với người hầu như bạn như bè nhé.

Nguyễn Biểu: - Gì nữa ?

Người hầu: - Đẹp nhé.

Nguyễn Biểu: - Gì nữa ?

Người hầu: - Tất tần tật ạ (nhìn Nguyễn Biểu, rụt rè) - Ông ơi nghe bà bảo... Mà ông đừng nói với bà là con nói với ông thì con mới dám nói ạ.

Nguyễn Biểu: - Nói đi. Ông hứa chỉ hai chúng ta nghe, biết.

Người hầu: - Nghe bà bảo... ông sắp sửa đi xa phải không ạ ?

Nguyễn Biểu: (Một mình) - Có chuyện ấy ư ?

Ý định của mình nàng biết rồi ư ? Chao ơi, người đời bảo, vợ chồng đã trao xương gửi thịt cho nhau củng chưa đủ được (với người hầu) - Bà có rỗi việc không? Nếu bà rỗi việc, ngươi mời bà ra cho ông gặp nói chuyện.

Người hầu: - Bà đang làm thuốc cho cậu Trực.

Cái khí trời, hơi đất làm cậu khó ở mấy hôm nay. Hồi sáng, con và bà sang chùa Yên Quốc xin thuốc của nhà sư, nhưng lính không cho lên đò. Con xắn tay áo, uỳnh ngực ra, suýt nữa thì con đã đi theo bố, mẹ con rồi. Đã thế, lúc về vào chợ Thượng để mua thức gì ngon bổ cho cậu thì chợ trống huơ, trống hoác chỉ có chó hoạng và ruồi đen nhâm nhi, nhâm nhi. Ông ơi, trên, dưới, phải, trái, gái trai, già trẻ ai ai cũng tóp tép cái dạ dày...

Nguyễn Biểu: (Ngắt lời người hầu) - Ta biết (một mình) Thiên hạ loạn lạc, người không ốm đau cũng khó sống, huống hồ người bệnh tật.

(Nguyễn Biểu ngồi vào bàn, một tay chống trán, khuôn mật đăm chiêu. Người hầu bó ra. Gió thổi mạnh, hai, ba tờ giấy trên án thư bay trong khoảng không. Nguyễn Biểu đứng dậy, bắt giấy, rồi đến trước bàn thờ).

Nguyễn Biểu: - Nhà Hậu Trần mới dựng hai năm, chưa thấy làm được gì cho thái bình, thịnh trị. Cái sự được, sự hỏng của một triều cứ nhìn vào dân trăm họ để biết. Cái tài, cái đức của bậc đế vương đảm đương vận hội, thi hành đạo cổ, mưu hoạch việc lớn cao, thấp thế nào cứ nhìn vào dân trăm họ để biết. Ta vừa làm một chuyến vi hành khắp xứ La Sơn ra tận Thanh Hoa, vào Thuận Hóa, gặp nhà nhà đói khổ, thấy muôn sự nhiễu nhương. Lại nghe triều đình không yên. Tướng tài giữ đạo trung thì bị giết, kẻ gian lại được trọng dụng, ban tước vị, bổng lộc. (Nguyễn Thị Hộ vào, đứng từ xa lắng nghe) - Xót xa thay (lặng im xúc động, một lúc) - Ta tài hèn, sức mọn, không mưu hành nên sự gì, ngẫm xấụ hổ cho bao năm đọc chế sách, mấy lần thi cử đỗ đạt.

Nguyễn Thị Hộ: - Thấy ông dày vò một mình, u uất tâm sự mà lòng tôi buồn khổ không yên (đi đến bên Nguyễn Biểu)

Nguyễn Biểu: (Đỡ bàn tay vợ trong tay mình) - Tôi làm chồng nàng có với nhau hai mật con rồi mà chưa một lần cùng nàng thảnh thơi ngắm cảnh làm thơ. Âu cũng bởi cái thời... (ngắc ngứ) - Tôi có lỗi với nàng... Mai kia nước yên, dân bình, vợ chồng ta vui thú vậy (cười chua chát).

Nguyễn Thị Hộ: (Gần như hốt hoảng) - Không ! Tôi đâu dám trách ông. Cái tình ông đối với vợ con tôi đâu phải ở chỗ làm thơ, ngắm cảnh, đâu phải chồng trước vợ sau vào nội, ra ngoại. Tôi đã khóc khi tiễn ông đi lập công với nước, rồi lại khóc khi ông đau buồn bởi chí nguyện không thành trở về nhà.

Nguyễn Biểu: (Nhìn xa xôi) - Nàng ơi ! Tôi những thèm cùng nàng lên Ngàn Hống ngắm cảnh, làm thơ, nhìn mây bay, nghe suối chảy, ngửa bàn tay hứng tiếng chim rơi... Nhưng nàng hiểu cho bụng dạ tôi. Tôi xin nàng... (cúi xuống).

Nguyễn Thị Hộ: (Vội đỡ tay chồng) - Đừng !

Ông làm thế, tôi còn mặt mũi nào nhìn thiên hạ. Nếu không vì bất tài, tôi đã như nàng Quỳnh Hương vợ chàng Đặng Dung cưỡi ngựa, vung gươm.

Nguyễn Biểu: (Trầm ngâm) - Năm điều của kẻ sĩ: trí, nhân, nghĩa, dũng, đức cứ canh cánh trong lòng tôi. Tôi chẳng tham vọng đứng trong hàng quân tử, mà cốt để khỏi xấu mặt với bạn bè, để góp chút sức mọn cho giang sơn, xã tắc.

Nguyễn Thị Hộ: - Tôi biết chí ông, hiểu tâm sự của ông.

Nguyễn Biểu: - Tướng quân Đặng Dung nàng vừa nhấc là một trang hảo hán đã mấy năm ngang dọc chiến trận.

Nguyễn Thị Hộ: - Nghe tin chàng đã về chùa Yên Quốc.

Nguyễn Biểu: - Thế ư ? (xúc động) - Đêm qua tôi nằm mơ thấy sao mọc trên Thiên Nhẫn, biết điềm báo.

(Người hầu từ ngoài vào)

Người hầu: - Bẩm ! Có người xưng danh Đặng Dung xin gặp ông ạ.

Nguyễn Biểu: - Ta vừa nhắc xong (ngứa mặt).

Đấy là ý trời (với vợ) Nàng ra mời tướng quân Đặng Dung vào cho tôi.

(Nguyễn Thị Hộ và người hầu ra. Nguyễn Biểu sửa sang trang phục. Lát sau Đặng Dung mặc áo giáp, lưng đeo kiếm vào).

Đặng Dung: - Kính chào Nguyễn tiên sinh.

Nguyễn Biểu: - Bấy lâu cách biệt, tại hạ hằng mong nhớ tướng quân.

Nguyễn Thị Hộ: - Vợ chồng tôi mới nhắc tướng quân xong. Đúng là ý trời, lòng người. Đêm qua cháu Trực lên cơn sốt không ngủ, cháu hỏi: Chàng Đặng Dung múa kiếm, đọc sách giờ ở đâu ?

Đặng Dung: - Thế chị trả lời với cháu sao ?

Nguyễn Thị Hộ: - Tôi bảo, chàng Đặng Dung là thiên hạ đệ nhất kiếm thì ở khắp thiên hạ (ngâm) - Thù nước chưa xong đầu đã bạc. Mấy độ mài gươm bóng nguyệt tà.

Nguyễn Biểu: - Lâu nay tôi không được tiếp kiến bạn bè, lòng đau đáu một nỗi niềm ngóng trông cơ hội. Nếu hôm nay tướng quân không tới thì tôi củng ra đi. (Với vợ) - Bà xem trong nhà có gì quý soạn ra đãi khách. Rượu nếp cái, hến Ngàn Sâu, còn cái món dưa cải chua xào tép nữa.

Nguyễn Thị Hộ: - Hai ông vào chuyện, tôi xin phép.

(Nguyễn Thị Hộ cúi lễ rồi đi ra. Nguyễn Biểu và Đặng Dung nhìn nhau, nét mặt xúc động. Bên ngoài gió lại thổi ào ào. Nắng dọi vào chỗ hai người đứng).

Nguyễn Biểu: (Kéo ghế) - Mời ông ngồi. Ông sống thế nào ?

Đặng Dung: - Từ khi phụ thân tôi và bác Nguyễn bị vua Giản Định Đế giết, tôi và Quỳnh Hương bỏ về quê, đêm xuống sông Nghèn đánh cá, ngày lên Ngàn Hống đi săn. Tưởng lánh xa thời cuộc mà không được, bụng dạ cứ không yên. Cứ thấy cái tội lỗi của mình đối với giang sơn xã tắc ngày mỗi to, cứ thấy cái đạo nghĩa của mình đối với dân ngày mỗi mỏng. Thế rồi; lại lên ngựa. Ba năm gom binh, xông trận nhưng thấy tình thế cứ mịt mù. Người hiền sĩ thì ngày mỗi ly tán.

Nguyễn Biểu: - Dùng trung hậu đối đãi với sĩ phu, lấy thành tín để cai trị dân chúng; cái đường lối ngay thẳng ấy nay còn đâu !

Đặng Dung: - Tôi, Nguyễn Súy, Nguyễn Hiếu và Ngân Hà cùng tâm sự như tiên sinh. Nhưng chẳng lẽ ngồi nhìn giặc Minh dày xéo đất đai, sông núi. Xưa cha tôi dạy: kẻ sĩ mài gươm dưới trăng. Mặt trời không mọc cũng tuốt gươm mà đi.

Nguyễn Biểu: - Triều đình đầy bọn xu nịnh, bất tài, tham lam. Lính ít, sĩ phu ly tán. Nghĩ mà xót xa.

Đặng Dung: - Tôi tìm đến ông là mong có sự gặp nhau trong việc tìm đường cứu cơ nghiệp Hậu Trần.

(Nguyễn Biểu đăm chiêu đi đi lại lại. Đặng Dung trầm ngâm).

Nguyễn Biểu: - Quan hệ ông và Nhập nội thị trung Trần Quý Khoáng thế nào ?

Đặng Dung: - Ông ấy nhiều mối bất hòa với vua Giản Định Đế và bọn Nguyên Tôn, Trần Hỷ. Còn với phụ thân tôi thì ông ấy một lòng nể trọng.

Nguyễn Biểu: - Xem ra nhà Trần chỉ còn mỗi ông Trần Quý Khoáng là để cho chúng ta phò giúp. Tôi xin trình ý tôi với tướng quân để tướng quân ngẫm xem sao.

Đặng Dung: - Tôi xin nghe.

Nguyễn Biểu: - Chúng ta bàn đưa ông Trần Quý Khoáng về phía nam sông La và xây dựng một căn cứ kháng chiến trên đất Bà Hồ La Sơn. Xưa, Uông Lập Tín có sách lược "duyên giang" cứ men theo sông lập đồn đủ tác dụng chiến, thủ. Vùng Bà Hồ La Sơn vừa có duyên giang thêm son thạch hiểm yếu, lại là đất sinh chí sĩ trượng phu bao đời nay.

Đặng Dung: (Chộp lấy hai tay Nguyễn Biểụ lắc lắc) - Trời ơi ! Khá khen trí lự của tiên sinh. Dựa vào địa lý để trung hưng cơ nghiệp xưa nay bao người tài giỏi đã làm. Nhưng ý định lập vua mới thay vua cũ bất tài không được dân tin nửa thì chỉ có bậc hào kiệt, sĩ phu mới nghĩ ra (im bặt, băn khoăn). Nhưng... Trần Chưởng thì sao đây ? Ông ta cũng cháu vua Giản Định Đế ngang bậc Trần Quý Khoáng. Ta củng phải tính đến chuyện ấy vì máu tham tước vị, bổng lộc có từ nô tì đến bậc quốc thích.

Nguyễn Biểu: - Trần Chưởng là người không dùng không được, mà dùng thì biết là không dùng được. Sống với loại người ấy ta luôn phải đề phòng, thân ta sẽ mỏi mệt hơn, tóc ta sẽ bạc nhanh hơn. Nhưng đất Nam ta còn bao nhiêu người xử sĩ.

Đặng Dung: - Thiên hạ thì to lớn, dân chúng thì đông đúc, kẻ sĩ thì nhiều, có minh chủ nữa thì chấn hưng nhà Trần, diệt giặc Minh, việc ắt thành.

Nguyễn Biểu: - Phải lắm.

Đặng Dung: (Vui vẻ) - Xưa kia, một lần phụ thân tôi bảo: Có sự gặp nhau làm nên nghiệp lớn là ứng với hôm nay chăng.

Nguyễn Biểu: (Cười) - Kẻ sĩ mài gươm dưới trăng chờ mặt trời mọc, mặt trời không mọc phải kéo mặt trời lên tuốt gươm mà đi.

(Nguyễn Thị Hộ xách cái giỗ tre vào, theo sau là người hầu bưng cái khay gỗ đựng một be rượu, ba cái chén nhỏ)

Nguyễn Thị Hộ:(Đặt cái giỏ tre lên bàn) - Xin dâng hai ông chén rượu và thức nhắm là quý vật sông La, núi Thiên Nhẫn (giọng run run) - Hai ông dùng cho tôi vui. Tôi sẽ làm cái phận sự nhỏ mọn của người vợ đối với chồng và với khách quý.

Nguyễn Biểu: - Phận sự nàng đâu phải là nhỏ mọn. Nàng biết rồi đấy, tôi sẽ phải đi. Phận sự của nàng chỉ có thể lấy núi, lấy sông mà sánh.

Nguyễn Thị Hộ: - Để tôi đưa con ra tiễn ông.

(Nguyễn Thị Hộ nhìn Nguyễn Biểu, mắt rân rân nước, rồi ra. Nguyễn Biểu và Đặng Dung im lặng nhìn theo cho đến khi Nguyễn Thị Hộ dắt tay Nguyễn Trực vào. Nguyễn Biểu ôm Nguyễn Trực vào lòng).

Nguyễn Biểu: (Với vợ) - Tôi đi không hẹn ngày về, nhưng không phải là không về. Nàng đừng khóc... Đừng khóc...

Nguyễn Thị Hộ: (Gượng cười) - Tôi có khóc đâu. Cầu mong ông đi chân cứng đá mềm. Xin hai ông nâng rượu.

(Ba người chúc rượu. Một tia chớp lóe sáng cả căn phòng. Người hầu xách tay nải ra trao cho Nguyễn Biểu, sụt sịt khóc).

Nguyễn Biểu: - Ngươi hãy chăm sóc bà giùm ta.

Người hầu: - Dạ.

Nguyễn Biểu: (Trao con cho vợ) - Tôi đi.

Đặng Dung: - Xin chị (cúi chào)

(Nguyễn Biểu và Đặng Dung đi, Nguyễn Thị Hộ dắt con theo một quãng rồi đứng lại).

Nguyễn Thị Hộ: - Chàng đi dặm thẳm non xa

Gió mưa trắng mắt biết là về đâu

Trông theo lòng nhớ, dạ sầu.

Trên ngàn chớp lóe, sông đầu sấm ran.

II

Ngày 17 tháng 3 năm Kỷ Sửu (1409).

Một tòa đăng quan uy nghi

Phía xa là núi trập trùng. Dưới chân núi là sông La. Hai bên bờ sông thấy lô xô đồn ái.

Lính 1: - Từ bữa về Bà Hồ lại nay ta thấy dễ chịu hơn.

Lính 2: - Vì không phải đánh đấm, lại được nghỉ ngơi, không phải thấy cái chết lửng lơ, lơ lửng trên đầu chứ gì.

Lính 1: Ấy là một nhẽ. Nhẽ nửa, làm lính ông Đặng Dung, ông Nguyễn Biểu, ông Nguyễn Cảnh Dị bọn ta có vẻ là con người hơn. Chứ hồi ở Thanh Hoa, cầm giáo theo ông Nguyên Tôn phù vua Giản Định Đế thì...

Lính 1: - Suỵt ! Mày không tiếc cái đầu à ? Đến như tướng Đặng Tất, tướng Nguyễn Cảnh Dị vào ra binh lửa, một lòng vì triều Trần mà còn được uống thuốc độc, được hứng gươm nữa là...

Lính 2: - Sắp khác rồi.

Lính 1: - Là sao ?

Lính 2: - Họ sắp rước một người ở chùa Yên Quốc về đây làm vua thay Giản Định Đế vì nghe đâu sau khi giết tướng Đặng Tất và tướng Nguyễn Cảnh Chân đêm nào nhà vua cũng mộng mị, ngọc thể bất an.

Lính 1: - Mày biết nhiều chuyện nhỉ. Càng biết nhiều chuyện càng dễ chết con ạ.

Lính 2: - Nào ! Còn mỗi việc treo cái này lên chỗ này (chỉ tay lên phía trên ngai rồng).

Lính 1: - Phải xong trước giờ Ngọ đấy.

(Hai lính căng một tấm vải có dòng chữ "Thuận thiên kế nghiệp Trùng Quang hoàng đế" treo lên phía trên ngai rồng)

Tiếng bên ngoài: - Thiết triều !

Lính 1 và lính 2 nhìn tấm biển một lần nữa rồi nép vào hai góc. Sáu lính cờ vào chia thành hai hàng dọc. Trần Quý Khoáng đội mũ bình thiên, mặc áo long cồn đi vào, theo sau có Nguyễn Biểu, Đặng Dung, Trần Chưởng, Nguyễn Súy và một số quan văn, quan võ. Trần Quý Khoáng ngồi vào ngai. Các quan đứng chầu hai hàng dọc).

Quan văn: (Giọng sang sảng)

Thừa thiên hưng vận Trần triều hậu duệ Trùng Quang hoàng đế chiếu rằng:

Nhà Trần ta từ khi vua Thái Tôn lên ngôi năm Ất Dậu đến nay đã trải qua 183 năm. Mấy năm qua, họ Hồ thoán đoạt rồi nhà Minh cướp nước, hào kiệt, dân chúng nhiều phen nổi dậy mưu giành lại sơn hà. Vua Giản Định Đế chí không đủ lớn, tài chẳng đủ cao; chỉ nhờ vào Quốc công Đặng Tất và chư vị anh hùng ra sức mới khôi phục được một nửa cơ đồ. Thế mà vừa đây lại làm một việc bất nhân, bất nghĩa là giết hai bậc đại công thần Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân khiến cho quân tan, dân chán. Giặc Minh thừa thế cướp một phần đất đai phủ Ninh - Thanh.

Trẫm nay nghĩ mình là dòng đích, cháu của Thượng hoàng Nghệ Tông, phải đứng lên thu gom trăm họ ba quân vào một mối, trước là để đánh thắng giặc Minh, khôi phục giang sơn, sau là để rửa lỗi lầm của người trong họ.

Vậy nên tuân mệnh trời, thể lòng người lên ngôi cửu ngũ lập hiệu Trùng Quang, thống lĩnh quân dân một lòng đánh giặc. Từ nay định ước: Vua tôi cùng vinh nhục, trên dưới cùng sướng khổ. Ai có công được ghi ơn, ban thưởng, trọng dụng. Kẻ có tội nhỏ thì tha thứ cho được lập công chuộc tội. Chỉ xử hình thật nặng những kẻ ăn ở hai lòng đầu hàng quân giặc, hoặc cướp của giết người.

Ngày Dần tháng Thìn, Tượng Long Hổ phong vân, trẫm xuống chiếu xa gần đều rõ.

Khâm thử.

(Ba hồi chiêng vang lên, vua Trùng Quang rời ngai dâng hương ngửa mặt làm lễ tế trời rồi vái vọng về hướng Đông Bắc. Trùng Quang ngồi vào ngai. Mọi người quỳ lạy).

Mọi người:   - Hoàng thượng vạn tuế.

- Nam Việt vạn tuế.

Trùng Quang: - Các khanh nghe đây. Ta cầm binh đao bao năm dưới trướng vua Giản Định Đế đánh giặc Minh mong mỏi chấn hưng cơ nghiệp nhà Trần, nhưng chẳng làm nên trò trống gì, phải về ở ẩn trong chùa Yên Quốc. Nay các khanh tin ta, rước ta về đây tôn ta làm vua. Ta mong các khanh hãy một lòng cùng ta mưu việc lớn.

Mọi người: - Hoàng thượng vạn tuế.

Trùng Quang: - Lời xưa dạy: Làm vua phải biết cân nhắc kẻ giỏi giúp mình. Lại dạy, mỗi ngưòi dân là một cột trụ của nước nhà, vua cũng như dân là một cột trụ vậy. Vì thế ta làm lễ sắc phong cho một số khanh đã từng có công với nhà Trần.

(Lính cờ phất cờ đi chéo trước ngai rồng rồi xếp thành hai hàng dọc, không ngừng phất cờ cho đến hết các sắc phong)

Nội quan: (Đọc to) - Sắc cho Nguyễn Biểu vâng mệnh giữ chức Điện tiền thị ngự sử.

Nguyễn Biểu: (Sụp lạy) - Thần: Nguyễn Biểu xin phụng mệnh.

Nội quan: Sắc cho Đặng Dung vâng mệnh giữ chức Đồng bình chương sự.

Đặng Dung: (Sụp lạy) - Đa tạ bệ hạ. Thần xin phụng mệnh.

Nội quan: Sắc cho Trần Chưởng vâng mệnh giữ chức Thái giám.

Trần Chưởng: (Một mình) - Ta thuộc dòng con cháu họ Trần mà đứng ở bậc chánh tứ phẩm ư (với vua Trùng Quang) - Bệ hạ quên danh phận của thần rồi sao? Quên là với vua Giản Định Đế thần và bệ hạ cùng hàng cháu sao ? Quên là trước khi có cách biệt vua, thần và bệ hạ cùng ra vào một ngõ ư ?

Nguyễn Biểu: - Tấu trình bệ hạ ! Chức vị cứ vào tâm đức tài năng mà giao. Xưa nay triều nào cũng thế.

Trần Chưởng: - La Sơn Nguyễn Biểu ! Hà cớ gì mà ngươi can gián ?

Nguyễn Biểu: - A !  Máu tham tước vị bổng lộc có trong tim, óc từ bậc quân tử đến kẻ tiểu nhân. Đặng tướng quân nói với ta cách đây mấy ngày đã nghiệm.

Trần Chuởng: (Với Nguyễn Biểu) - Danh vị của ta là danh vị nhà Hậu Trần. Việc chẻ phù, phong tước cho ta còn là việc đạo đối với tổ tiên. Ngươi không hiểu sao?

Nguyễn Biểu: - Hiểu ! Hiểu quá đi chứ ạ.

Trùng Quang: - Nghe bằng tai thì ngươi nói có lý. Nhưng Thái giám phải so tài năng của mình với người.

Trần Chuởng: - So ư ? Đặng Dung con trai Đặng Tất mà Đặng Tất bị triều Trần xử ? Bệ hạ còn nhớ chứ ? Còn Nguyễn Biểu đậu Thái học sinh thời nhà Hồ là cái gì ?

Đặng Dung: (Tay sờ đốc gươm, giận dữ) - Ngươi ăn nói như một kẻ phàm phu tục tử.

Trùng Quang: - Cứ để Thái giám nói tiếp.

Nguyễn Biểu:(Rũ tay áo) - Tấu trình bệ hạ ! Có tôi trung, phải có vua sáng. Có vua sáng phải có tôi trung. Xưa nay vua sáng, tôi trung thì nước trị. Nếu không có cảnh nước trị thì bọn tự xưng là trung kia (nhìn Trần Chưởng) không phải là trung vậy. Và, vua sáng ấy (nhìn Trùng Quang) không phải là sáng vậy.

Trần Chưởng: - Khép ngươi vào tội khi quân, không oan.

Trùng Quang: - Hãy nghe...

Nguyễn Biểu: - Thần từ cái gốc là đạo để nói lời ngay thẳng. Nếu bệ hạ coi đó là khi quân, loạn ngôn thì xin bệ hạ rút sắc phong của thần và khép tội thần. Bởi, trước sau chi thần cũng nói lời ngay thẳng.

Đặng Dung: - Thưa bệ hạ! Thần biết Điện tiền thị ngự sử Nguyễn Biểu mười năm nay, nhân và trí chẳng kém mấy ai ở đất La Sơn này.

Trần Chưởng: (Nôn nóng) - Có ai hỏi tướng quân mà nói hả ?

Trùng Quang: (Chí Nguyễn Biểu) - Ngươi nói tiếp đi.

Nguyễn Biểu: - Vua Giản Định Đế cầm quân sĩ chăm lo muôn dân đã hơn hai năm mà chưa thành đạt nổi việc gì. Ngài không biết các bậc hiền tài là khí dụng của nhà nước, không thân với bậc quân tử, nên trách nhiệm nơi chín bệ suy cho cùng cũng chỉ một mình ngài và những kẻ nịnh thần kém cỏi gánh vác.

Trần Chuởng: (Sờ đốc gươm) - Không được nhờn phép nước, không được lạm ngôn vua. La Sơn Nguyễn Biểu có còn là trung thần ?

Đặng Dung: (Sờ đốc gươm) - Xưa cha ta bị chém, triều Trần mất bao nhiêu tướng giỏi chỉ vì những lời nói xúc xiểm của kẻ tiểu nhân.

Trần Chuởng: - Ai tiểu nhân ? Hả ? Nguơi nói đi ! Ai tiểu nhân ? Ai quân tử ? Họ Đặng đối với nhà Trần thế nào, chú ta đã xử rổi đó.

Trùng Quang: (Chém tay vào không khí) - Thôi ! Thôi ! Các khanh đừng quất lưỡi vào nhau nữa.

(Mọi người im bặt. Lính cờ rủ cờ đứng lặng).

Trùng Quang: - Giặc Minh đang tới gần. Vua Giản Định Đế cát cứ ngoài Ngự Thiên. Sao các khanh không lo bàn việc ấy ? Các khanh có kế sách gì ?

Nguyễn Biểu: - Bẩm bệ hạ ! Theo thần hợp tung là quốc sách.

Trần Chưởng: - Xưa nay có nước nào có hai vua ? Nhà Trần có hai ông vua! Dân nhìn hai bệ rồng đặt kề cạnh nhau biết xưng hô làm sao ? Thần thấy thật là không ổn.

Trùng Quang: - Ngươi bảo việc gì không ổn.

Trần Chưởng: - Bẩm, việc hai vua ấy. Việc hợp tung hai vua lại ấy.

(Trùng Quang bối rối nhìn hết người này sang người khác)

Nguyễn Biểu: (Với Trần Chưởng) - Tháng trước, tôi và ông và tướng quân Đặng Dung ngồi thuyền vượt nước lũ để ra Thanh Hoa lo chuyện lập căn cứ Bà Hổ nói về chuyện lập vua mới, ông là người nhiệt thành nhất cơ mà. (Với Trùng Quang) - Xin bệ hạ bình tâm. Vua Giản Định Đế đã già, thể tạng và tâm sự mệt mỏi. Nhưng vẫn là người trọng danh. Bệ hạ tôn vua Giản Định Đế làm Thái thượng hoàng là hợp đạo trời, hợp lòng dân, tránh được thiên hạ chê trách.

Trùng Quang: - Ôi ! Điện tiền thị ngự sử ! Ngươi đúng là bậc hiền sĩ.

(Lính thị vệ từ ngoài vào, sụp lạy)

Lính thị vệ: - Bẩm tâu bệ hạ ! Có người đưa thư từ Ngự Thiên về.

Trùng Quang: - Chắc chú ta đã biết chuyện. Cho vào.

(Quan đình thần vào)

Quan đình thần: - Nhập nội thị trung Trần Quý Khoáng nhận thư.

Trần Chuởng: (Rút gươm) - Láo ! Ngươi không biết người trước mặt ngươi là vua Trần Trùng Quang à ?

Quan đình thần: - Đó là Nhập nội thị trung Trần Quý Khoáng.

(Trần Chưởng đâm chết quan đình thần. Mọi người ngơ ngác).

Trùng Quang: - Sao ngươi nóng nảy làm vậy.

Nguyễn Biểu: (Ngửa mặt lên trời) - Nhà Trần không khéo hỏng nghiệp lớn vì một mũi gươm. (Với Trần Chưởng) - Ông cốt phá kế hợp tung phải không ?

Trùng Quang: (Tức giận chỉ tay vào mặt Trần Chưởng) - Ngươi muốn ta và vua Giản Định Đế bị đoạn tuyệt, muốn thiên hạ chửi vào mật ta ư ?

Trần Chuởng: - Oan cho thần. Chỉ vì thần không chịu nổi khi có kẻ khi quân. Mong bệ hạ hiểu mà tha tội. (Tự kéo xác quan đình thần ra).

Trùng Quang: - Đọc đi ! Đọc thư chú ta đi.

Đặng Dung: (Mở thư) - Thần xin phụng mệnh (đọc)

An Nam Giản Định Đế gửi cho Nhập nội thị trung Trần Quý Khoáng biết: Đã lâu, Trẫm và khanh không có dịp hội kiến để bàn kế sách chấn hưng sự nghiệp nhà Trần. Nay nghe tin khanh cùng một số tướng sĩ lập cứ Bà Hồ, đối mặt với lũy tướng Minh Trương Phụ bên kia sông La. Lại nghe, khanh dùng Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị làm bậc hiền sĩ. Khanh đừng quên là cha hai người ấy bị Trẫm chém đầu mùa xuân năm Đinh Hợi. Trẫm nhắc: Dùng nhầm người là căn do của loạn.

Vậy đặc sai đình thần đem thư tới mà không đưa chỉ dụ để khanh tiện bề xử liệu. Thứ nữa, khanh hãy thu xếp về ngay Ngự Thiên để cùng Trẫm cáng đáng việc nhà Trần chớ để chậm chạp, làm ta bực mình.

Hưng Khánh năm thứ 2 tháng 5 ngày 24

(Im lặng. Các quan đưa mắt nhìn nhau. Trần Chưởng nhếch mép cười một mình)

Trùng Quang: - Các khanh tính sao ?

Trần Chưởng: - Chi bằng khởi binh.

Nguyễn Biểu: - Quan Thái giám giết quan đình thần đã là quá lắm. Giờ còn bày mưu khởi binh! Khá khen mẹo mực của ông. Xưa Trương Nghi người nước Ngụy theo Trần Vũ Vương xui nước Yên đánh nước Triệu để nước Tần mạnh. Nay ông cũng tính chuyện đánh nhau để ông trở thành người cầm cân nẩy mực trong nội tộc họ Trần phải không ?

Trần Chưởng: - Ông ăn nói hồ đồ.

Trùng Quang: - Ngươi im đi.

(Trần Chưởng rủ tay áo, tra gươm vào vỏ đi ra)

Trùng Quang: - Các khanh nghe đây! Giờ Dần ngày mai khởi binh tiến đánh giặc Minh. Còn Điện tiền thị ngự sử Nguyễn Biểu đem 200 quân cùng với lễ vật trọng ra Ngự Thiên yết kiến vua Giản Định Đế, nói ý định của Trẫm và đưa hết cái tài ra mà tự hành việc. Trẫm tin ngươi. Riêng quan Thái giám Trần Chưởng ở lại Bà Hồ cùng 100 lính lo việc tu bổ lũy phía sông La.

(Lính thị vệ vào, hốt hoảng)

Lính thị vệ: - Bẩm tâu bệ hạ ! Quan Thái giám giết bốn lính giữ cổng thành lên ngựa chạy về hướng Bắc rồi ạ.

Trùng Quang: (Đổ người xuống ghế) - Trời ơi!

Vua hiểu được tôi khó lắm thay. Hãy đuổi theo Trần Chưởng bắt cho ta.

Nguyễn Biểu: - Bẩm ! Không được đâu ạ.

Trần Chưởng là người cưỡi ngựa, bắn cung không ai bằng.

Trùng Quang: - Chưa hành sự, đã nhiễu sự.

Mọi nguời: - Xin bệ hạ hãy bình tâm.

III

Đêm sáng lờ nhờ, đồi nối đồi lô nhô; xa hơn chút nữa là rừng. Một con đường ngoằn ngoèo chạy giữa những lùm cây. Gió xào xạc. Thảng hoặc có tiếng chó sói hú xa xa.

Nguyễn Thị Hộ dắt tay Nguyễn Trực, theo sau là người hầu gồng gánh. Họ chạy, ngã. Lại lồm cồm bò dậy chạy tiếp. Mệt, họ ngồi túm tụm dưới một gốc cây cao, lá lưa thưa không rõ cây gì. Nghe rõ tiếng thở hổn hển.

Nguyễn Thị Hộ: (Với con) - Con thế nào ? Mệt không ? Nào, để mẹ bóp chân cho. Tội nghiệp, mới hơn chục tuổi đã phải chạy giặc.

Nguyễn Trực: (Co duỗi chân) - Con khỏe mạnh mà, chỉ nhức chân, đau ngực, mỏi cổ thôi.

Nguyễn Thị Hộ:(Với người hầu) – Ngươi thấy thế nào? Ta vẫn đi đúng đường đấy chứ. Thiên địa ơi, sao mà cứ trập trùng đồi với đồi thế.

Người hầu: - Con thì con chẳng có rõ hướng với phương nào nữa.

Nguyễn Thị Hộ: - Mây đen lại ùn ùn lên đầy trời, không thấy sao để định hướng.

Người hầu: - May không trăng sao, trời tối mà ta ra khỏi được Bà Hồ. Con đã nói, ta có trời phù giúp. Giá mà ông ở đây nữa thì con chẳng sợ.

Nguyễn Thị Hộ: (Một mình) - Hôm ông ra đi, ông dặn tôi đừng khóc, đừng khóc. Tôi đã không khóc hàng năm nay, cho dù trăm nỗi khổ cực oan ức. Ông còn dặn tôi chăm lo nhà cửa con cái... Ông ơi, phận đàn bà sức vóc như lá cỏ lau, tôi đã kém cỏi phải bỏ nhà mà chạy trốn. Phải bỏ bàn thờ tổ tiên, bỏ sách vở thánh hiền của ông lại mặc bọn giặc Minh định liệu. Tôi lạy ông trăm lạy (cúi lạy)

(Phía đầu con đường lóe lên một ánh lửa. Bóng hai người lính xuất hiện. Người hầu vội vàng xách nách Nguyễn Trực và kéo Nguyễn Thị Hộ vòng ra phía sau một bụi cây rậm).

Người hầu: - Lặng... Lặng im như đất như đá, như cây, như cỏ nghe chưa hở cậu, hở bà ?

Lính 3: - Cứ như họ độn thổ vậy.

Lính 4: - Này, tao nghe nói ông Nguyễn Biểu tinh thông lý số, có phép thuật nữa. Tao nghĩ, bà vợ ông ấy cũng giỏi giang không kém. Ấy ! Mày xem ! Bốn phía vắng tanh vắng ngắt, toàn những bóng đen lởn vởn, lởn vởn. Kia kìa !...

Lính 3: (Run rẩy, nép vào lính 4) - Hết đường rồi mày ạ. Bên kia là đất Hà Hoa của nhà Trần. Lớ ngớ bị họ tóm.

Lính 4: - Thì thế này này (làm động tác thắt cổ)

Lính 3: - Eo ôi ! Tao không muốn chết.

Lính 4: - Mày có nghe mấy người lính giữ cứ Bà Hồ, khi đại quân nhà Trần thua ngoài Thần Đầu kéo tuột vô Thuận Hóa, họ bị ông Phan Liêu và tướng Trương Phụ bắt đem treo cổ trước cửa chùa Yên Quốc không ?

Lính 3: - Không

Lính 4: - Đang đêm, nhà sư ra chẳng thấy họ đâu nữa. Thì ra họ bơi dọc sông Lam, đến cầu, họ trèo lên lố nhố, lố nhố...

Lính 3: - Thôi đừng kể nữa. Tìm kiếm xem. Bắt được họ, họ chết, không bắt được họ tao và mày chết.

Lính 4: - Chẳng để làm chi. Đến như ông Trần Chưởng cháu vua Giản Định Đế làm đến chức Thái giám nhà Trần, bỏ nhà Trần theo tướng Trương Phụ hôm trước còn bị nọc ra đánh nữa là phận tao với mày.

Lính 3: - Ờ ... bọn ta như con kiến, con nhái.

Lính 4: (Thân mật) - Mày còn ai ở nhà không ?

Lính 3: - Mẹ, vợ và hai đứa con. Thằng con đầu của tao giống cô ấy, còn cô ấy là gái Cửa Hội, da thịt cứ phây phây, cứ ngồn ngộn.

Lính 4: - Còn tao, không còn ai. Giờ tao có chết là chết rảnh rang, chẳng nhớ thương ai, chẳng ai thương nhớ tao. (Bùi ngùi. Hai lính ngồi sát vào nhau).

Lính 3: (Nhìn về phía bụi cây nơi Nguyễn Thị Hộ trốn) - Có tiếng động lạ lắm mày ạ.

Lính 4: (Đập đập cán giáo xuống đất) - Đây này ... Cái tiếng mày nghe thấy đấy. Thôi, giờ thì mày trốn đi. Để mặc tao. Tao sẽ nói với ông Phan Liêu, ông Trần Chưởng là mày bị quân nhà Trần bắt. Thế là không ma nào đi tìm mày.

Lính 3: - Trốn ? Hay ! (băn khoăn) nhưng có chỗ nào cho tao nương thân.

Lính 4 : (Cười) - Đất La Sơn mênh mông không có chỗ cho cái thân nhái, thân kiến của mày à ?

Lính 3: - Thế thì... Thôi, tao đi. Tao ơn mày. Mai mốt tan cơn binh biến, mày đừng quên tao nhé (sụt sịt, kéo lê mũi giáo đi ra)

Lính 4: (Quay về phía Nguyễn Thị Hộ) - Các người ra và chạy nhanh đi.

(Nguyễn Thị Hộ, Nguyễn Trực và người hầu từ phía sau lùm cây ra).

Nguyễn Thị Hộ: - Chú không bắt chúng tôi sao ?

Lính 4: - Tôi mà bắt các người, tôi đã bắt ở Bà Hồ lúc bà lội qua hói Đẻo bị tuột dép ấy.

Nguyễn Thị Hộ: - Ta mang ơn chú. Ơn này có ngày báo đáp.

Lính 4: - Bà đi đi cho.

Nguyễn Thị Hộ: (Móc túi lấy gói tiền đưa cho lính 4) - Gọi là chút lễ trả ơn cứu mạng.

Lính 4: - Ta cần tiền làm chi. Ôi ! Ta cần tiền làm chi ? (Ngửa mặt, lắc đầu. Rồi quắc mắt) - Đi ngay.

Nguyễn Thị Hộ: - Xin chú nhận của mẹ con tôi một lạy.

Lính 4: (Vội vàng) - Không dám. Tôi chịu ơn ông Nguyễn Biểu ngày lũ sông La, bà không biết đâu. Đi đi. Các ngươi hãy vượt nhanh khỏi cái dốc kia. Bên ấy có quân nhà Trần rồi đấy.

(Mấy người vội vàng đi. Họ lên đến đỉnh dốc thì ở dưới này lính 4 tự sát. Nghe tiếng động, họ quay lại, đến ngồi quanh xác người lính. Im lặng).

Tiếng hát hậu trường: Ru hời... ngọn cỏ thì xanh

Đất quê thì nhỏ, mỏng manh phận người

Cỏ xanh là cỏ, ơi hời...

Khóc chi để nỗi một trời mưa rơi.

Ru hời, ru hỡi, ru hời

Cỏ xanh, đất đỏ một trời đầy mưa.

(Những người chạy trốn chôn cất người lính. Công việc diễn ra câm lặng, dưới ánh trăng lờ nhờ và trong tiếng hát lúc xa lúc gần, lẫn tiếng gió rú rít đây đó)

Giữ trung, ta tự chết

Giữ nghĩa, ta tự chết

Ngàn thu, ta là đất

Phơi lưng dưới nắng trời

Cỏ xanh, cỏ xanh ơi

Cỏ xanh, cỏ xanh ơi

(Trời tối. Rồi sáng bừng lên một khoảnh khắc, đủ nhận ra những người chạy trốn đang xuống dốc bên kia).

IV

Hành tại ở Châu Hóa. Buổi chiều. Vua Trần Trùng Quang bồn chồn đi đi lại lại.

Trùng Quang: - Bốn năm gánh vác cơ nghiệp nhà Trần ta chưa lo nổi việc yên dân, nói chi đến thái bình thịnh trị (thở dài). Chỉ liên miên đánh giặc. Được, thua, thua được (gió thổi ào ào bên ngoài). Sau thất bại trận Thần Đầu ta rút về đây. Thực là kẻ bại. Ôi nhục nhã tủi hổ. Phải vì ta bất tài, chưa hiểu thấu lẽ tinh thô của sự vật, hay ta chưa đến được cội nguồn của đạo Thánh hiền. (Thở dài, lắc đầu). Thương những tướng sĩ theo ta đã thiệt mạng, những hiền sĩ vì ta mà bạc tóc.

(Nguyễn Biểu vào đứng lặng phía sau)

Trùng Quang: (Day dứt) - Thế là vì đâu ? Những kẻ mưu phản ta ta đã giết, những kẻ dối trên, lừa dưới ta đã đuổi. Nhưng người hiền, kẻ sĩ ta chưa đủ "nhân", đủ "trí" để họ đưa tay, ghé vai giúp ta. Sách dạy đạo trị nước không phải một người mà làm nên công được. Ngoài mấy hào kiệt ở cạnh ta từ hồi xây thành, đắp lũy ở La Sơn, ta còn ai ? Thái Thượng hoàng đã bị bắt ngoài Nho quan nay không biết sống chết ra sao. Hoàng Thái hậu thì xa ta mà gần cầm ca thi tửu. Cô đơn đang gặm ta, đang nuốt ta (đưa hai tay ôm đầu)

Nguyễn Biểu: - Xin bệ hạ bình tâm. Bậc đế vương coi cái thắng như nụ cười nơi miệng trẻ, coi cái bại như cái gai dưới bàn chân.

Trùng Quang: - Khanh đấy ư ? Khanh đến với ta đấy ư ?

Nguyễn Biểu: - Bẩm bệ hạ ! Bọn thần vẫn ở cạnh bệ hạ cả đấy thôi. Ông Đặng Dung đang dạy binh pháp cho quân, ông Nguyễn Cảnh Dị đang lập đồn ải phía Nam núi Ngự... Những người khác từng theo bệ hạ xông trận ở Nghệ An, Thanh Hoa vẫn giữ trọn đạo làm tôi. Dăm bảy tướng đến cả Trần Chưởng Thái giám, vài trăm quân bán đạo cho giặc Minh kể làm gì

Trùng Quang: - Khanh là người học sâu, biết rộng, khí khái hơn người, khanh nói cho ta biết, ta có còn xứng là minh quân của các khanh không ?

Nguyễn Biểu: - Nếu bệ hạ "trí", "nhân" đều mỏng thì sau thất bại trận Thầu Đầu trên đường rút về Thuận Hóa lúc qua sông La, thần đã bỏ bệ hạ về quê vui thú cùng vợ con chờ thời.

Trùng Quang: - Trẫm tin. Khanh nói tiếp đi.

Nguyễn Biểu: - Trong triều những kẻ theo Thái Thượng Hoàng từ Ngự Thiên vào chưa một lòng cùng bệ hạ...

Sự thể ở Thái Từ Cung đang như một bếp than âm ỉ cháy, gặp gió là sinh hỏa hoạn.

Trùng Quang: - Nên dùng kế sách gì ?

Nguyễn Biểu: - Theo thần, ta phải cầu hòa với giặc Minh để tướng công Đặng Dung và Nguyễn Súy hợp quân, củng cố lực lượng. Ngoài bình thì trong trị.

Trùng Quang: - Trương Phụ đang ở thế thắng, liệu bọn chúng có chịu không ?

Nguyễn Biểu: - Bọn Phụ chưa hiểu hết quân tình của ta và chúng còn ngại vùng đất này núi cao, sông rộng hiểm trở.

Trùng Quang: - Ôi, quan Ngự sử ! Khanh đã làm ta bình tâm hơn. Còn việc cử sứ thần gặp Trương Phụ thì tính sao ?

Nguyễn Biểu: - Thần đã thảo sẵn thư và dự liệu lễ vật. Thần sẽ dâng trình bệ hạ soi xét. Tùy cơ ứng biến, liệu thế cương, nhu, mọi lý tình là vì giang sơn xã tắc; ấy là việc của sứ giả mọi thời (ra).

Trùng Quang: (Một mình) - Hiền sĩ như Nguyễn Biểu được mấy người.

(Bên ngoài có tiếng người lao xao)

Tiếng bên ngoài: - Tôi tìm gặp chồng tôi.

- Chồng ngươi ư ?

- Chồng ta là Điện tiền thị ngự sử Nguyễn Biểu đất La Sơn.

- Ra bà là vợ ngài Nguyễn Biểu. Sao nom bà xơ xác ốm o vậy.

- Đi mà hỏi giặc Minh ấy. Thôi, hãy dẫn ta vào.

- Hình luật bảo, tự tiện vào Quang Triều cung chịu tội xử giảo.

- Các ngươi đừng dọa già này.

(Trùng Quang đi ra phía có tiếng ồn ào. Lát sau vào. Theo sau là Nguyễn Thị Hộ)

Nguyễn Thị Hộ : - Xin bệ hạ tha tội. Thần thiếp từ La Sơn vô quả không biết đây là Hành tại.

Trùng Quang: (Một mình) - Việc trị binh ta chưa dạy lễ, nghĩa được bao lăm. (Với Nguyễn Thị Hộ) - Ngươi đi muôn dặm gặp quan Ngự sử chắc có chuyện không hay ?

Nguyễn Thị Hộ: - Mấy năm cách biệt, vợ chồng không gặp nhau. Nay nghe chồng thiếp về đây để ổn binh, thiếp đưa con trai và để cả nhà sum vầy, dù trong một khắc.

Trùng Quang: - Việc lành, dữ cứ nói. Ngươi định giấu ta sao ?

Nguyễn Thị Hộ: - Dạ, thần thiếp đâu dám giấu, chỉ lo làm vướng tinh thần bệ hạ và làm chồng thiếp thêm nặng lòng. Nay, được bệ hạ soi xét thần thiếp xin thưa.

Trùng Quang: - Ngươi nói đi !

Nguyễn Thị Hộ: - Dạ thưa ! Giặc Minh đã xây xong lũy phía bắc sông Lam. Tuần trăng trước chúng kéo quân sang phá tan lũy Bà Hồ và vây nhà thần thiếp, dọa nếu chồng thần thiếp không ra hàng sẽ treo cổ cả nhà. Hôm kia tri huyện Trần Hình và tướng Trần Chưởng kéo quân sang. Một lính mật tin thần thiếp biết. Vì thế, mẹ con thần thiếp phải trốn khỏi La Sơn, nhờ lòng hiếu nghĩa của một người lính mà thoát được vào tới đây.

Trùng Quang: - Cái sự liên lụy của kẻ hào kiệt không tránh khỏi trong thời loạn. Mẹ con ngươi vào được đây là ta mừng. Có chuyện gì nữa nói sau. Phu nhân ra quán nghỉ...

Nguyễn Thị Hộ :(Sụp lạy) - Thần thiếp xin bệ hạ một đặc ân.

Trùng Quang : (Đỡ Nguyễn Thị Hộ) - Miễn lễ.

Phu nhân nói đi. Phu nhân xin đặc ân gì, ta không chối từ đâu.

Nguyễn Thị Hộ: - Thần thiếp biết, chồng thần thiếp sắp đi sứ. Xin bệ hạ đừng vì việc thần thiếp vào mà đổi thay ý chỉ.

Trùng Quang: - Phu nhân mới vô chân ướt chân ráo sao tường tỏ nội tình triều đình vậy ?

Nguyễn Thị Hộ : - Bẩm. Thần thiếp đoán biết qua nét mặt bao dung của bệ hạ đấy ạ.

Trùng Quang: - Khá khen cho sự tinh tường của phu nhân. Thôi phu nhân cứ ra, ta sẽ cho quan Ngự sử đến sau. (Nguyễn Thị Hộ ra. Trùng Quang một mình) - Cái việc cầu hòa đã đến lúc không thể trì hoãn. Nhưng gia sự đang vậy, Nguyễn Biểu có làm tròn phận sự. Mà ta không nỡ cử ông ta đi. Làm vua phải biết nóng, lạnh của cận thần. Ta đã biết cơ mà. Ôi, khó thay !

(Nguyễn Biểu vào, lắng nghe)

Nguyễn Biểu: - Xin bệ hạ bình tâm. Thần đã biết mọi chuyện. Xưa Vũ Vương vào đất Ân nêu tỏ quê hương của hiền sĩ Thuơng Dung, đắp mộ cho hào kiệt Tỷ Can, nhờ thế dân Ân theo Vũ Vương mà không mất một mũi tên. Tướng giặc Minh Trương Phụ làm ngược lại thì sao lấy được đất La Sơn. Việc vợ con thần thiếp vào đây lánh nạn núp bóng hồng phúc bệ hạ lại là chuyện hay.

Trùng Quang: - Quả nhân không lạnh lòng cử thần đi lúc này.

Nguyễn Biểu: - Nếu bệ hạ nghĩ vậy, há ra thần nêu gương xấu coi gia sự hơn quốc sự cho các quan trong triều sao. Với lại, thưa bệ hạ, nếu bệ hạ không cử thần đi, vợ con thần sẽ rời Thuận Hóa ngay hôm nay. Tính khí vợ thần, thần hiểu như hiểu lòng bàn tay vậy.

Trùng Quang: - Phải, vợ ngươi phẩm giá và khí khái hơn người. (Trầm ngâm một lúc) - Ngươi vẫn nhớ chuyện Hành khiển Nguyễn Nhật Tư và quan thẩm hình Lê Ngận đi cầu phong bị vua Minh giết chứ ?

Nguyễn Biểu: - Dạ, thần nhớ. Nếu có mệnh hệ gì, thì thần đã lập danh cho triều Hậu Trần mà lập danh là cái cao nhất của đức hạnh.

Trùng Quang: - Ôi ! Nói vậy là nói với bậc tri giả. Còn trước thần là một người đàn bà, là đứa con trẻ ruột rà.

Nguyễn Biểu: (Một mình) - Tôi vì bận việc nước mà quên vợ con, nhà cửa. Nàng sinh nở tôi cũng không về, không ngửi thấy mùi thơm vỏ bưởi, không nghe tiếng khóc của con. Rồi nàng ốm, tôi cũng chỉ có chút quà mọn sai lính mang về. Mọi việc đồng áng, ăn mặc của gia đình một thân gầy nàng đảm nhiệm. Chao ôi, làm chồng như tôi, làm cha như tôi có lẽ lý gì để nói với vợ, con. (Với Trùng Quang). Thưa bệ hạ ! Việc cầu hòa đã bức hách. Nếu chậm, giặc sẽ vượt sông La đánh vào Hà Hoa nay mai. Bệ hạ cho ý chỉ để thần phụng mệnh. Còn việc nhà, thần sẽ nhờ Đồng bình chương sự, vốn bạn bè từ thuở trẻ thu xếp. Đạo nước chỉ một, còn đạo nhà phải chỉnh theo thời loạn, thời bình. Xin bệ hạ xem kế sách của thần (dâng kế sách).

Trùng Quang: (Băn khoăn, day dứt. Bên ngoài gió thổi ào ào. Có tiếng sấm ì ầm xa xa. Một ánh chớp lóe qua cửa) - Trẫm y ý ngươi.

Nguyễn Biểu: - Đa tạ bệ hạ.

Trùng Quang: - Thôi, về nghỉ đi. Nói vói Nguyễn Thị Hộ ta có lời chào. (Nhìn lên trời) Trời động; chắc sắp có mưa lớn (nhìn Nguyễn Biểu) - Ta mong ngươi non xa, dặm thẳm bình yên.

(Im lặng hôi lâu)

Trùng Quang: - Người đâu, mang rượu. Ta chúc ngươi một chén quan hà.

(Lính bưng rượu ra. Trùng Quang và Nguyễn Biểu nâng chén. Trùng Quang không cầm được nước mắt, bất giác ngâm thơ).

“Mấy vần thơ cũ ngợi Hoàng hoa

Trịnh trọng này nhân đắng khúc ca

Chiếu phượng mười hàng tơ cặn kẽ

Vó câu nghìn dặm tuyết xông pha

Tang bồng đã bấn lòng khi trẻ

Khương quế thêm cay tính tuổi già

Việc nước một hai công ngõ vẹn.

Gác hiền danh tiếng cõi lân xa”(*)

Nguyễn Biểu: - (Xúc động vái tạ, rồi cảm khoái):

"Tiếng ngọc từ vâng trước bệ hoa

Ngóng tai đồng vọng thuở thi ca

Đường mây vó ký lần lần trải

Áo tuyết cờ mao thức thức pha

Há một cùng tên lồng trí trẻ

Bội mười vàng sắt đúc gan già

Hổ mình vả thiếu tài chuyên đối

Dịch lộ ba ngàn dám ngại xa(**)

(Lại chạm chén. Hai người nhìn vào mắt nhau như bè bạn)

Dinh Trương Phụ. Một ngày trời âm u, cuối tháng 7-1413 Trương Phụ nửa nằm nửa ngồi, cạnh là Phan Liêu. Một vài lính vệ.

Lính vệ: - Bẩm tướng công, ông Trần Chưởng xin yết kiến ạ.

Trương Phụ: - Cho vào.

(Trần Chưởng vào)

Trần Chưởng: - Ngu thần Trần Chưởng xin yết kiến tướng công.

Trương Phụ: - Ngươi là kẻ biết nhìn xa, trông rộng, chọn mạnh để phù, biết yếu để xa, đáng được nhận một lời khen của ta.

Trần Chưởng: - Đội ơn tướng công.

Trương Phụ: - Việc bắt giữ vợ con Nguyễn Biểu xong rồi phải không ?

Trần Chưởng: - Dạ, thần đến để xin chịu tội.

Trương Phụ: (Đứng bật dậy) - Vô mưu hãm tài. Một mụ đàn bà và một đứa trẻ con mà để nó giẫm lên mũi chạy thoát. Còn dùng ngươi làm gì ?

Trần Chưởng: - Xin tướng công tha tội chết. (Quỳ sụp)

Phan Liêu: - Bẩm ! Tướng công xử vậy, còn ai dám bỏ nhà Trần theo chúng ta.

Trương Phụ: - Nể lời Phan Liêu, ta tha cho ngươi. Ngươi trở về lũy và giết hết những kẻ không làm tròn cái việc cóc nhái ấy.

Trần Chưởng: - Tạ ơn tướng công.

Trương Phụ: (Với Phan Liêu) - Lúc nãy ngươi nói cái gì, nói tiếp ta nghe.

Phan Liêu: - Dạ, theo ý ngu thần thì, sau trận Thần Đầu, nhà Trần bám áo nhau chạy một mạch vào Châu Hóa, tướng công nên nhân thế thắng bước vài bước nữa là thu phục hết cõi.

(Lính 3 từ ngoài vào)

Lính 3: - Bẩm tâu ! Có sứ thần nhà Trần từ Thuận Hóa ra tên là Nguyễn Biểu Điện tiền thị ngự sử ạ.

Trương Phụ: - Cho vào.

(Nguyễn Biểu bận phấm phục đại phu từ ngoài vào, thần thái ung dung)

Trương Phụ: - Tên man di kia ! Quỳ xuống.

Nguyễn Biểu: (Sắc mặt vẫn bình thản) - Trung Hoa là một nước có lễ, nghĩa sao ngươi mới được thấy mặt sứ thần đã trương gân cổ lên quát nạt vậy?

Trương Phụ: - Vua, tôi mi thua ta liểng xiểng. Vợ con ngươi đang đêm bồng bế nhau chạy theo Trùng Quang. Mi còn thế chi nữa mà nói chuyện với ta, hả ?

Nguyễn Biểu: - Tướng giỏi không dùng mẹo vặt, tâm lớn không đánh đàn bà trẻ con. Mà thôi cái chuyện đàn bà, trẻ con. Còn cái thắng, cái thua trong cuộc chiến như chuyện mưa, nắng của trời vậy. Biết đâu ngày mai nhà ngươi lại liểng xiểng thua ta.

Trương Phụ: - A ! Ha ! Ngươi cũng thuộc loại biết nói ngông.

Nguyễn Biểu: (Chậm rãi, rành rọt) – Ngươi có nhớ Nguyên Thế Tổ kiêu hùng khắp đông, tây mà đến Đại Việt cũng phải nhường.

Phan Liêu: - Chuyện thời nào của thờì ấy.

Nguyễn Biểu: - Ta không nói với ngươi. Người nước Nam ta nói ra lời tử tế với người chứ không nói lời tử tế với vật.

Trương Phụ: - Lưỡi mi chắc là dài lắm. Đừng múa may nữa. Hãy về Thuận Hóa thu xếp và hàng ta đi.

Nguyễn Biểu: - Đất ta rộng, người ta đông, quân ta đồng lòng, đồng chí. Lại có núi cao, sông rộng, đường ngang lối tắt bí hiểm. Quân nhà ngươi bao nhiêu năm hao mòn mà chỉ cắm chân một chỗ đấy thôi. Ngươi nên biết, người nước Nam còn thì nước Nam còn, mà người nước Nam thì như cây trên rừng, như cá ngoài biển đông.

Trương Phụ: - Vậy ngươi muốn gì ?

Nguyễn Biểu: - Lâu nay quân ta và quân ngươi đánh nhau, thắng thắng, thua thua, hai bên đều lĩnh đủ. Nay ta ra đây theo lệnh vua Trùng Quang bàn với ngươi hòa hoãn.

Trương Phụ: - A... Ha... ta từng nghe ngươi đọc thông kinh sử, thì ra chỉ là lời ba hoa. Ngươi không biết được thế của kẻ thắng và phận của kẻ bại. Ta nói ngươi hay, không có hòa hoãn gì hết. Không hàng thì ta làm cỏ. Ta thừa mệnh Minh Thành Tổ xuống đất Nam cái gì lấy được thì lấy, không lấy được thì bỏ.

Nguyễn Biểu: (Ngửa mặt lên trời) - Ta buồn và lo lắng thay cho nhà ngươi lòng cạn như đĩa dầu, đầu loãng như nước gạo. Tiếc thay ? Tiếc thay !

Trương Phụ: (Tức giận) - Im ngay ! Quân đâu ! Cắt lưỡi xong; chém đầu.

Nguyễn Biểu: - Lưỡi ta đây (thè lưỡi). Nhưng để ta nói thêm câu này: Đến cái nhẽ hai nước đánh nhau không được chém sứ giả mà người không biết ư ?

Trương Phụ: - Thôi ! Ta tha. (Đứng dậy, bước mấy bước, đầu cúi xuống, trở lại, ngồi xuống chỗ cũ). Ta sẽ đãi ngươi một bữa tiệc để thưởng cho giọng lưỡi nhà ngươi.

Nguyễn Biểu: - Khá khen sự biết cư xử của ngươi.

Trương Phụ: - Ta đãi ngươi món cổ kim hy hữu. Lính đâu, mang tiệc (cười một mình, vẻ đắc thắng).

(Tỳ tướng bê ra một cái mâm đồng, trên có phủ tấm vải điều đỏ, đặt xuống trước mặt Nguyễn Biểu, Nguyễn Biểu ngồi xếp bằng tròn, xắn tay áo, cầm đũa, giật tấm vải.

Một cái đầu người xòa tóc, trông rõ mắt, mũi, miệng. Vết chém ngang cổ bằng bặn, máu nhễu ra, đọng thành vũng trên mâm đồng)

Trương Phụ: - Ăn đi ! Xong ta sẽ tha. Sao, mày sợ rồi hả ?

Nguyễn Biểu: - Không (xắn lại tay áo) - Người Nam ăn đầu người Bắc đây. (Lấy đũa khoét mắt). Có mắt mà như mù (bỏ vào miệng nhai, rồi khoét óc) - Có óc mà si (nhấp một chén rượu, xong ném đôi đũa xuống mâm, đôi đũa cắm thẳng, đuôi rung rung trên cái đầu người lồi lõm).

(Trương Phụ, Phan Liêu, Trần Chưởng và bọn lính im phắc. Không khí nặng trĩu. Một làn khói từ ngoài ùa vào).

Nguyễn Biểu: (Rũ tay áo nhấp thêm một chén rượu rồi ngâm nga)

- Ngọc thiện trân tu đã đủ mùi

Gia hào thêm có cỗ đầu người

Nem công, chả phượng còn thua béo

Thịt gụ, gan lân hẳn kém tươi

Ca lối lộc minh so cũng một

Vật bày thư thủ bội hơn mười

Kia kìa ngon ngọt tày vai lợn

Tráng sĩ như Phàn tiếng để đời(*)

Trương Phụ: - Im ngay ! Và cút đi cho khuất mắt ta ! Cút ! Cút !

Nguyễn Biểu: - Ha, ha ! Ha !

(Tiếng cười Nguyễn Biểu vang to và vọng mãi cả sau khi ông đã khuất sau những làn khói trắng. Gió reo u u đây đó).

Trương Phụ: (Nhìn theo Nguyễn Biểu) - Xưa nay, người vậy không nhiều.

Phan Liêu: - Bẩm tướng công. Chí khí như cỏ gấu.

Trương Phụ: - Là sao ?

Phan Liêu: - Là cái sự lây lan ạ.

Trương Phụ: - Theo ngươi, ta nên làm gì ?

Phan Liêu: - Họ Phan, đến thần nữa là hai đời núp bóng tướng công, hưởng ơn Huệ Minh Thành tổ, thần xin tâu trình ngu ý của thần.

Trương Phụ: - Nói đi ! Mồm mày ngậm cái cứt gì mà ấp úng vậy ?

Phan Liêu: - Dạ ! Hào kiệt như Nguyễn Biểu xứ này tính đầu ngón tay. Tướng quốc muốn lấy nước Nam mà không có những người như Biểu việc e khó thành.

Trương Phụ: - Nếu nó không thần phục theo ta ?

Phan Liêu: - Được, là nhất; nhì, là bỏ ạ.

Truơng Phụ: - Ngươi nói có lý (với Trần Chưởng) - Cho ngươi lập công chuộc tội. Hãy mang 100 binh sĩ đuổi theo bắt nó về đây cho ta. Nếu nó hàng phục, ta cho sống. Nếu không, ta sẽ trói vào cột cầu sông Lam cho nước dìm chết như dìm con mèo.

(Phan Liêu ra. Trương Phụ đứng yên. Không khí im lặng)

VI

    

Sông Lam. Buổi sáng ngày 1-7 năm Quý Tỵ . Nước ròng. Thấy rõ những cái cột cầu đen, nham nhở, Nguyễn Biểu bị trói vào cái cột gần nhất. Ông đang dùng móng tay khắc chữ lên mặt gỗ. Máu đó cháy thành vệt dọc cột cầu. Hiện lên mấy chữ theo móng tay ông: "Thất nguyệt sơ nhất nhật, Nguyễn Biếu tử".

Tiếng sóng lao xao đâu đầy. Lúc lúc lại vẳng lên tiếng Nguyễn Biểu chửi Trương Phụ - "Trương Phụ, kẻ cướp, tàn ngược tham lam!". Bóng một con thuyền từ thượng nguồn sông La trôi về". Vẳng lên tiếng hát của người lái đò. Tiếng hát rõ dần nghe lẫn tiếng mái chèo khua nước.

Tiếng người lái đò:

Một dải sông xanh vắng ánh trời

Thuyền trôi sóng nổi mệt chèo bơi

Dân thường ngóng đợi mùa yên ả

Mỏi mắt năm qua tháng lại rồi

Bình trị nửa chừng còn lỡ dở

Cuồng ngông bèo rác lại nổi chồng

Hiện buồm rờ rỡ trời im gió

Tâm lặng, chí hùng, nước trở trong

(Phía xa, xuất hiện bóng lính vệ)

Tiếng lính: - Ê ! Đò kia quay lại.

Người lái đò: (Đã đến gần, cởi trần, đen trũi) - Đến cấm cả đường trên sông à ?

Tiếng lính: - Cấm tiệt !

Người lái đò: - Có cái lệ nào trái đạo trời, trái lòng người như lệ này không ?

Tiếng lính: - Vào dinh mà hỏi. Nếu không quay lại thì ta cho đi luôn xuống chơi Long vương Hà bá đấy.

Người chèo đò:(Quay thuyền. Rồi cho thuyền đứng im. Nhìn Nguyễn Biểu) - Giờ ta mới biết vì ngài mà nước sông không dám dâng. Nghĩa tiết của bậc sĩ phu đã động xuống tận thủy cung, vang lên thượng đế. Xin ngài nhận cho ta hai lạy. (Bổ quai chèo, lạy).

Nguyễn Biểu: - Ôi ! Trời còn cho ta cuộc gặp gỡ này. Bao việc ta chưa làm xong, bao điều ta chưa nói được. Mệnh ta chỉ là chiếc lá bàng vàng rơi nhẹ tênh, trôi nhẹ tênh. Nhưng rơi xuống đâu, trôi về đâu khi vận nước còn chìm nổi.

Người chèo đò: - Ngài chưa đi mà đã hiển thánh sai bảo được sông nước. Thiêng thay ! Thiêng thay !

Nguyễn Biểu: - Chắc trời sắp đặt cho ông đến với ta lúc này. Lòng ta đang cuồn cuộn nỗi niềm. Nhà Trần mới dựng, chấn hưng oanh liệt chưa được một ngàn ngày đã gặp cơn lốc hại do giặc Minh tàn ngược gây nên. Ta đã tỏ lòng trung tín, trình bày mối giường, dâng những kế sách lên vua, đã đánh thành xông trận, chém tướng giật cờ, sống không hổ mình với tiền nhân, bè bạn,vợ con. Nay, chết ta cũng giành cái chết của kẻ sĩ. Chỉ tiếc là lại chết trong tay tên tướng tàn ngược Trương Phụ và hàng thần thất phu Phan Liêu...

Nguời chèo đò: Người xưa nói: "Hình phạt không đụng đến bậc đại phu". Người có tiết tháo như ngài chớ nghĩ đấy là hình phạt. Bao kẻ giàu sang mà danh bị vùi dập tính không hết. Chỉ có người trác việt phi thường mới được người ta nhắc đến. Ngài thuộc loại thứ hai. Vậy nên đến nước này mà ngài không chút u hoài.

Lính vệ: - Ê! Tên kia ! Có quay lại không thì bảo.

Nguời chèo đò: Vĩnh biệt ngài. Dọc sông này mai kia ta có còn được nói chuyện với bậc tri giả như ngài nữa không ?

(Cho thuyền trôi chậm chậm. Ngửa mật lên trời, ngâm)

Người trước chẳng thấy ai

Người sau thì chưa thấy

Gẫm trời đất thật vô cùng

Riêng lòng đau mà lệ chảy (*)

Nguyễn Biểu: - Chao ôi ! Nàng Hộ của ta hát hay biết nhường nào. Nhất là khi nàng hát trên sông La. Giá lúc này được nghe tiếng hát của nàng. (Tiếng sáo xa xa. Im lặng ngoảnh nhìn về phía đông)

Tiếng hậu truờng: - Sông sâu tím ngắt bầu trời

Bèo trôi buồn chết dạ người giữa sông.

Xa xa tiếng sáo não nùng

Em nơi bến Sở, tôi trông đường Tần(**)

(Tiếng hậu trường nhỏ dần. Bất ngờ nổi lên tiếng gió, tiếng sóng và tiếng reo hò phía thượng nguồn. Trời sáng. Rồi tối. Rồi sáng. Rồi tối. Rồi sáng. Theo sự đổi thay của ánh sáng, khuôn mặt Nguyễn Biểu hiện lên lúc mờ, lúc rõ. Trương Phụ vào, theo sau là Phan Liêu, Trần Chưởng).

Trương Phụ: (Ngạc nhiên) - Mày còn sống ư?

Nguyễn Biểu: - Đúng.

Trương Phụ: - Mày chưa chết sao ?

Nguyễn Biểu: - Phải,

Trương Phụ: - Vì sao mày không chết, hả ?

Nguyễn Biểu: - Sao mày ngu thế. Sĩ phu nước Nam không ai chết.

Trương Phụ: (Một mình) - Nước không dâng.

Phan Liêu + Trần Chưởng: (Sợ hãi) - Đã ba ngày nay chúng thần không thấy nước sông Lam dâng.

Trương Phụ: - Kỳ lạ ! (tức tối). Để xem lời mày nói có đúng không? (Với Nguyễn Biểu) Mày bảo cái gì? Sĩ phu nước Nam không ai chết được à ? Xem đây ! (Rút kiếm đâm chết Trần Chưởng) - Thấy nó ngoẻo chưa, hả ?

Nguyễn Biểu: - Ha ! Ha ! Mày nhầm. Mày còn nhầm đến bao giờ nữa ? Kẻ vừa bị giết ấy có phải người nước Nam ta đâu ? Ta có thể chết vì mày, nhưng kẻ sĩ nước Nam như cây trên rừng nhiều lắm.

Trương Phụ: - Lính đâu.

Lính vệ: - Dạ, có chúng thần.

Trương Phụ: - Lôi cổ nó lên đây cho tao.

(Lính cởi trói cho Nguyễn Biểu. Kéo Nguyễn Biểu đi. Nguyễn Biểu gạt tay lính, đi lên bờ sông, quỳ xuống, ngoảnh về phía Nam lạy hai lạy)

Nguyễn Biểu: - Than ôi ! Vậy là sự nghiệp chấn hưng nhà Trần đã gặp nguy càng nguy hơn. Thần đã không làm trọn kế sách mà bệ hạ giao. Thần có tội với bệ hạ, với non sông. Xin vĩnh biệt bệ hạ, vĩnh biệt bạn bè, vĩnh biệt vợ con. Hãy tha thứ cho kẻ một lòng vì vua, vì nước, một dạ vì vợ con mà rốt cuộc chẳng làm nên tích sự gì.

Truơng Phụ: - Mày khóc ư ?

Nguyễn Biểu: (Bật dậy quắc mắt nhìn Trương Phụ) - Ta tế sống ngươi đấy mà.

Trương Phụ: - Lính đâu ? Giết nó cho ta.

(Lính vung gươm. Chỉ thấy ánh chớp lóe lên phía trên đầu Nguyễn Biểu và những cuộn mây đen ùn ùn chen lấn nhau phía xa xa).

VII

Sông Lam. Sóng dâng đều. Mềm mại. Tiếng sóng rào rạt. Trên mặt sông sương khói cuồn cuộn. Nguyễn Biểu hiện nửa người trong sương khói. Củng như cảnh IV, khuôn mặt Nguyễn Biểu lúc mờ, lúc rõ, như thực, như ảo. Giữa sương khói và trên sóng sông xanh, mềm mại hiện lên những cô gái mặc áo trắng, quần trắng, mờ ảo như những nàng tiên. Họ múa hát quanh Nguyễn Biểu :

Lời hát: - Sông xanh và sông xanh

Núi cao và biển rộng

Người ra đi như mộng

Kẻ ở lại u hoài

Sông xanh và sông xanh

Núi cao và biển rộng

Người ra đi như mộng

Giang sơn nhỏ lệ buồn.

Sông xanh và sông xanh

Núi cao và biển rộng

Người về trong sâu thẳm

Mối cô trung cháy trời.

Sông xanh và sông xanh

Núi cao và biển rộng

Đời người như con sóng

Dâng mãi mãi ngàn thu.

Sông xanh và sông xanh

Sông xanh và sông xanh

Màn

LỬA NGÀN SÂU

 “…Riêng cảm Tùng, Mai khí tiết, tinh thần một thác rạng trăng sao”

(Câu đối của Văn thân Nghệ Tĩnh điếu Phan Đình Phùng)

NHÂN VẬT

Hàm nghi: Vua Triều Nguyễn

Tôn Thất Thuyết: Thượng thư Triều Nguyễn

Phan Đình Phùng: Ngự sử Triều Nguyễn, Lãnh tụ phong trào Cần Vương

Cao Thắng: Tướng quân Cần Vương

Bà Lan: Vợ Phan Đình Phùng

Phan Đình Tuyển: Cha Phan Đình Phùng

Phan Đình Thông: Anh trai Phan Đình Phùng

Phan Bá Ngọc, Phan Bá Cam: Con Phan Đình Phùng

      Một số tướng lĩnh Cần Vương:

Cô Tám

Trần Xuân Soạn

Lê Ninh

Đinh Nho Hạnh

Đổng Nghinh

Lãnh Khai

Ngô Quảng

    Đại thần Triều đình Huế

Nguyễn Thân: Khâm sai Tiét chế quân vụ

Đinh Quảng: Tay sai Nguyễn Thân

Trương Quang Ngọc: Kẻ phản bội

Người hát xẩm, lão Thủ từ,  lính Pháp, lính tập, lính nghĩa quân và quần chúng.

Kịch xẩy ra ở miền Tây Hà Tĩnh vào thời gian 1885 – 1895

 Màn ngoài

Vùng trời miền tây Quảng Bình.

Trời tối lờ nhờ. Chốc chốc ánh lửa một chỗ nào đó lại lóe sáng soi rõ một đoàn người chạy vội vã giữa những gốc cây, dáng mỏi mệt. Gió rừng ào ào. Tiếng chân bước. Tiếng thở. Tiếng khóc. Tiếng súng nổ xa xa.

Tôn Thất Thuyết đi đầu đoàn phò giá vua Hàm Nghi, theo sau là 6 người lính khiêng kiệu, đám quan quân, tam cung[1], nữ tì, nhiều người lính vai đeo súng, mang vác, gồng gánh.

Đoàn phò giá: - Đi mau! Đi mau lên!

Đoàn người sấp, ngửa, nháo nhào chạy qua sân khấu

- Cố lên!

- Chúng đuổi gần rồi.

- Súng nổ đấy!

Vài người đứng dừng lại, sợ sệt. Tiếng súng nổ

- Chạy mau! Chạy mau lên! Có rừng mịt mùng che chở, khỏi lo. Nhanh lên!

Đoàn phò giá ra khỏi sân khấu thì lính Pháp và lính Triều đình vào

Lính Pháp và lính Triều đình: - Chúng không độn thổ, không thăng thiên được đâu.

- Ta truy riết từ Huế mà cứ mất dấu. Khốn khiếp!

- Mẹ nó! Xứ sở gì mà chỉ thấy rừng lại rừng.

- Đi! Phía phải kia.

- Đi! Đằng trái kia.

- Đằng trước ấy.

- Bắn đi!

- Trời tối rồi.

Vài tên lính giương súng bắn về phía trước.

- Không bắt được Tôn Thất Thuyết và Hàm Nghi không vô Huế, nghe không? Đồ khốn

- Đi! Đi!

Tiếng chân bước. Tiếng cành cây gãy. Tiếng gió ào ào.

Một

Mùa dông năm 1885.

Đền Trầm Lâm ở giữa vùng rừng huyện Hương Khê, Hà Tĩnh.

Mặt tiền đền cũ kỹ. Gian giữa, cánh cửa mở rộng. Qua khung cửa chỉ thấy một ngọn nến đang cháy trong khoảng không sâm sẫm. Chốc chốc ánh lửa nến loáng sáng hai chữ Cần Vương trên một tấm vải lơ lửng như đang bay, nom mờ ảo.

Phía trước là một khoảng đất rộng, có khá nhiều gốc cây. Hàm Nghi ngồi trên cái ghế có tựa bọc lụa đỏ. Tả, hữu là Thượng thư Tôn Thất Thuyết, Chưởng vệ Trần Xuân Soạn,

Gió rừng u u…

Hàm Nghi: - Từ bữa ra khỏi Huế đến nay đã mấy ngày?

Tôn Thất Thuyết: - Bẩm bệ hạ, tròn một tháng ạ.

Hàm Nghi: - Triều đình ra sao rồi?

Tôn Thất Thuyết: - Bẩm, đã nằm trong tay quân Pháp. Quan to, quan nhỏ, những kẻ không giữ được đạo làm tôi, bất tài, hám lợi, ươn hèn.

Hàm Nghi: - Ôi, ta buồn lắm. Hận lắm.

Hàm Nghi thở dài.

Tôn Thất Thuyết: - Xin Bệ hạ đừng bi thiết quá.

Người xưa dạy: Thành, bại, thịnh, suy là lẽ thường của tạo hóa.

Hàm Nghi: - Biết thế. Nhưng …

Trần Xuân Soạn: Bẩm Bệ hạ, Triều đình thúc thủ vô phương, nhưng dân tâm sỹ khí còn hàng triệu không vòng tay khuất phục. Xin Bệ hạ bình tâm.

Hàm Nghi: (Xa xót) – Đất mình, nước mình mà ròng một tháng trốn chạy, chui nhủi trong rừng, không có chỗ dừng chân (cay đắng) – Rồi sẽ thế nào đây? Cái ngày trở về xem ra mù mịt như sương khói ngoài trời kia.

Tôn Thất Thuyết: - Dạ thưa, việc nước thời loạn, khó bề đoán trước sự gì sẽ xẩy ra. Nhưng Bệ hạ khỏi lo, thần đã định liệu.

Hàm Nghi: - Pháp có còn đuổi theo ta nữa không?

Tôn Thất Thuyết: - Dạ, bọn chúng dừng lại bên kia Hương Hóa, Quảng Bình, đang tính phương trở vô Huế.

Hàm Nghi: - Chỗ này là đâu mà bốn bề trập trùng những núi với rừng vậy?

Tôn Thất Thuyết: - Bẩm, miền tây Hà Tĩnh,

Hàm Nghi: - Là chốn an toàn à?

Tôn Thất Thuyết: - Dạ! Dân Hà Tĩnh khí khái, trung quân, ái quốc là hào lũy bảo vệ bệ hạ.

Hàm Nghi: - Ta đã từng nghe …(Nhìn các tướng)

- Sau Chiếu Cần Vương của ta tình thế ra làm sao?

Tôn Thất Thuyết: - Dạ, thưa! Lửa trung nghĩa trong lòng sỹ phu và dân chúng vẫn cháy. Văn thân theo chiếu Cần Vương đã nổi lên khắp nơi.

Hàm Nghi: - Trước mắt giữ cho được lửa trung nghĩa trong lòng người.

Tôn Thất Thuyết: - Thưa Bệ hạ, chúng ta bỏ Tân Sở về đây là đang về với tôi trung để có trong tay dân khí, dân tâm mà thực hành công nghiệp cứu nước.

Hàm Nghi: - Tôi trung, dân khí, dân tâm? Đâu cả rồi?

Tôn Thất Thuyết: - Bẩm! Bệ hạ còn nhớ quan Ngự sử Phan Đình Phùng?

Hàm Nghi: (Đứng dậy) – Nhớ. Nhớ. Bữa họp đình thần ngươi và Nguyễn Văn Tường không theo di chiếu của cha ta mà phế bỏ Dục Đức tôn Văn lãng công lên làm vua, Ngự sử Phan Đình Phùng, đã mắng ngươi là kẻ càn rỡ, làm trái nghịch di chiếu, không còn nghĩa nhân thần. Sau đó ngươi đã bỏ tù ông ấy? Phải không?

Tôn Thất Thuyết: - Dạ, phải. Thần đã bỏ tù, rồi chính thần đã thả Phan Ngự sử. Ông ta còn mỗi cái danh Tiến sỹ về quê cày ruộng.

Hàm Nghi: - Nay nhà ngươi tiến cử?

Tôn Thất Thuyết: ­- Bẩm Bệ hạ! Phan Đình Phùng là người trí dũng quyết một lòng đánh Pháp. Bệ hạ sở thị triều đình nhan nhản quan to, quan nhỏ, người nước Nam, ăn lộc triều đình mà khi Pháp lăm le ngoài cửa Ngọ Môn đã cúi rạp cả xuống, mấy ai khảng khái đứng thẳng người vì cái trung với nước như ông ta. Thần Quý Ngự sử Phan Đình Phùng là vì thế.

Hàm Nghi: - Giờ Phan Đình Phùng ở đâu?

Tôn Thất Thuyết: - Biết bệ hạ đến Sơn phòng, Phan Đình Phùng và một số văn thân Hà Tĩnh đã kịp lên xin yết kiến.

Hàm Nghi: - Cho vào ngay.

Hàm Nghi ngồi xuống ghế, dõi mắt ra ngoài.

Tôn Thất Thuyết: - Mời các vị văn thân Hà Tĩnh.

Không khí trở nên trang nghiêm. Nghe tiếng hổ gầm trong đại ngàn. Phan Đình Phùng, Lê Ninh, mặc áo vải, vào.

Phan Đình Phùng (Lễ) - Chúng thần xin vấn an Hoàng Thượng.

Hàm Nghi: - (Đi lại gần Phan Đình Phùng) - Bình thân.

Phan Đình Phùng + Lê Ninh: - Đội ơn Hoàng thượng.

Phan Đình Phùng: - Để cho thành tan, nước mất, Thánh thượng mông trần là tội ở lũ thần hạ. Xin Thánh thượng gia ân. Lâu nay ở quê, lòng chúng thần đau đáu chờ cơ hội để đền ơn nước, trả nợ nhà. Được chiếu Cần Vương như đêm tối gặp lửa, lũ thần hạ dẫu chết cũng không từ, miễn đánh tan giặc Pháp để bệ hạ sớm hồi cung.

Hàm Nghi: - Trẫm còn trẻ người, non dạ đã gặp chính biến, nhờ Binh lộ Thượng thư Tôn Thất Thuyết và các trung thần mà thoát khỏi cơn binh lửa, vượt rừng, vượt núi ra được đến đây, tâm nguyện anh hùng, chí sỹ bốn phương Cần Vương chống Pháp.

Tôn Thất Thuyết: - (Đặt tay lên vai Phan Đình Phùng) – Xưa tôi với ông có lúc đối đầu. Nay ông đã cùng các văn thân đem quân lên đón xa giá thì ông đã lấy trung nghị làm đầu. Đúng vậy không?

Phan Đình Phùng: - Anh em chúng tôi một lòng, Lấy việc quốc gia làm trọng, không bao giờ để bụng tư tình.

Tôn Thất Thuyết: - Tôi biết thế rồi. Tôi đã nói là Hoàng Thượng về đây là về với tôi trung, với dân khí, dân tâm.

Phan Đình Phùng: - Có trời cao chứng giám, lâu nay giữa nhiều biến cố đa đoan tuy không có tài vương bá nhưng chúng tôi vẫn giữ được cốt cách kẻ sỹ, cái nghĩa tôi trung.

Lê Ninh: Dạ, thưa! Dẹp tình riêng, lo nghĩa lớn là phận sự của bọn văn thân chúng tôi dù ở thời bình hay thời loạn.

Hàm Nghi: (Xúc động) - Nước Nam sẽ còn vì còn nhiều nghĩa sỹ…

Tôn Thất Thuyết: (Với Hàm Nghi) - Xin Bệ hạ phong tước cho Phan Đình Phùng để dựng thế Cần Vương và để ông Phan dễ bề tụ hội anh hùng, chí sỹ.

Hàm Nghi: (Sau một lúc) - Ta phong Phan Đình Phùng làm Trung tướng quân, lĩnh Binh Bộ Thương thư, thống lĩnh các đạo nghĩa binh.

Phan Đình Phùng: (Quỳ lạy) - Đội ơn Hoàng thượng.

Hàm Nghi: - Bình thân. (Với mọi người) - Việc lớn phó thác cho các khanh, các khanh hãy tận trung, tận lực đừng có phụ lòng trẫm tin cậy.

Hàm Nghi đứng dậy đi giữa những gốc cây vào Đền Trầm Lâm. Tôn Thất Thuyết, Phan Đình Phùng, Lê Ninh cùng cúi đầu.

Cả ba: - Thánh thượng bình an.

Tôn Thất Thuyết: - Mời các ông ngồi.

Ánh sáng quét dọc sân khấu dọi sáng từng khuôn mặt.

Trương Quang Ngọc vào.

Trương Quang Ngọc: - Con thưa bẩm Ngài Thượng thư và quan Chưởng vệ. Con là Lãnh binh Trương Quang Ngọc đến đây xin thêm binh và khí giới để bảo vệ Tam Cung…

Tôn Thất thuyết: - Ấy là việc trọng; rồi sẽ có đủ. Giờ ngươi lui ra đi!

Trương Quang Ngọc: (Đột ngột chỉ tya vào các văn thân Hà Tĩnh) - Các ngươi là ai? Trông lạ hoắc.

Trần Xuân Soạn: - Tướng quân Phan Đình Phùng và các tướng lĩnh của ngài. Ngươi dám tự tiện vào lại còn ăn nói hồ đồ vậy ư?

Trương Quang Ngọc: - Bẩm. Con đang làm phận chức của Lãnh binh. Thấy các tướng đây giống mấy ông thợ sơn tràng mà đây giống mấy ông thợ sơn tràng mà dám vào bệ rồng để gặp Thánh thượng và ngài Thượng Thư.

Lão thủ từ: (Từ trong đền đi ra. Chỉ tay vào Trương Quang Ngọc) - Ôi con người trẻ tuổi, bụng dạ cạn đĩa đèn dầu.

Trương Quang Ngọc: - Thủ từ Miếu Trầm Lâm. Ông… Ông bảo ai bụng cạn đĩa đèn dầu hả? Thưa các ngài, lão còn bảo làm lễ cầu an cho Thánh thượng và ngài Thượng thư. Vớ va vớ vẩn thế.

Sấn sổ về phía ông lão. Trần Xuân Soạn tay sờ đốc gươm

Im lặng.

Lão Thủ từ: (Nhìn vào từng khuôn mặt) Ta nghe vua tôi các ngươi đi tìm đường cứu dân, cứu nước nhưng đêm qua ta thấy ngôi sao lạc rơi xuống đỉnh núi Độc Bình, nghe ngọn gió độc thổi lên từ phía biển. Gà gáy canh ba, ta gieo quẻ năm lần mãi cứ dương chứng rồi âm chứng. Đền Trầm Lâm sáng nay cứ sâm sẫm. Nén hương trên bệ thờ cháy được một nửa thì ngưng.

Tôn Thất Thuyết: (Ngửa mặt cười) - Ta đánh trận Binh Đài, đánh tòa Khâm sứ Pháp, rồi ta hộ giá Hoàng Thượng giẫm trên xác người chết thoát khỏi kinh thành ngổn ngang. (Đến trước mặt lão Thủ từ; giận dữ) - Ta đến chốn này để nghe những lời vẩn tâm, nhụt chí của lão ư? Lính đâu…

Lão Thủ Từ: - Ôi! Ngài nghe thì nghe, không nghe thì gió thổi nó vô rừng. (Quay về phía đền Trầm Lâm vái lạy) - Ấy, ấy … bao vong về Đền Trầm Lâm ứng vào ta báo lên Thánh Thượng hãy tuệ nhãn.

Hai lính từ ngoài vào

Phan Đình Phùng: (vội vả) - Xin khoan. (Với Tôn Thất Thuyết) - Thưa ngài! Dân khác quan là không có cái danh, cái lợi làm đục nhân tâm, nên nói ra được những lời ngay thẳng. Lời ông lão là lời dân gian, ngay thẳng, sâu nặng lắm. Tướng quân nên ngẫm suy mà tha cho lão.

Trần Xuân Soạn: - Ở đây chỉ có quân hộ giá và văn thân, đều những tôi trung sao lão bảo Thánh Thượng phải tuệ nhãn, hả?.

Lão Thủ tử: - Ôi ta không hiểu. Chỉ thấy trước mắt mưa gió mù mịt, mù mịt.

Tôn Thất Thuyết: (Quát) - Im miệng!

Phan Đình Phùng: (Với Tôn Thất Thuyết) - Thưa ngài, người dân trắng dám thốt lời nghịch nhĩ quan là người không tư tình, tư lợi; đáng trọng.

Tôn Thất Thuyết: (Với Lão Thủ từ) - Ta nể quan Ngự sử bỏ qua cái miệng lắm lời của lão!

Trương Quang Ngọc: - Lão già điên. (hai người lính kèm ông lão ra ngoài).

Tôn Thất Thuyết: - (uể oải ngồi xuống, đưa tay ôm đầu) - Dọc đường phò vua chạy giặc, khổ cực trăm bề, lại thêm công việc dự liệu thúc ép, khiến đầu ta lúc nào cũng như ủ một hòn than đỏ.

Phan Đình Phùng: - Chắc những công việc dự liệu của Ngài căn bản lắm.

Tôn Thất Thuyết: - Mấy năm qua ta chỉ biết lo che chắn bốn phía chung quanh để tránh những cú đánh của người nhà mình, có lo chi được cái căn bản. (cười cay đắng)… Nay, công cuộc kinh doanh chiêu tập quân binh, lập đồng. lập cứ đánh địch, ông và anh em đây thông thạo lo liệu.

Phan Đình Phùng: - Thưa. Thời cuộc khó khăn cho ta lắm. Người Pháp đông, khí giới tốt. Rồi còn bọn tiểu nhân cơ hội, núp bóng giặc Pháp ăn hiếp an hem cùng giống. Thêm đói khát, bệnh tật…

Tôn Thất Thuyết: (Ngắt lời Phan Đình Phùng) ­- Nói như quan Ngự sử thì còn chi mà đánh với đấm.

Phan Đình Phùng: - Còn lòng người, thưa ngài.

Tôn Thất Thuyết: - (Đứng dậy, đi quanh Phan Đình Phùng và Lê Ninh. Rồi khoát tay)

- Lòng người không địch được súng đạn.

Phan Đình Phùng: - Thưa, các bậc minh quân xưa dạy: Được lòng người thì thịnh, mất lòng người thì suy. Dựa vào đức thì bền lâu, ỷ vào sức thì chóng mất. Phép trị nước phải có ân, có uy, rồi dần dần lấy ân thay uy, lấy lòng nhân thay cho sức mạnh.

Tôn Thất Thuyết: - Lòng người, ân, đức, ư? Đều cần. Nhưng binh sỹ và vũ khí là hai thứ để giữ được ân, đức với nhân. Các ngươi nghĩ sao?

Lê Ninh: - Bẩm! Dân ta khổ nhiều rồi. Lửa âm ỉ trong ruột gan rồi. Nay có cờ cần vương quân sỹ bốn phương sẽ về tụ hội, khỏi lo về binh. Còn khí giới thì lấy của giặc làm của mình.

Phan Đình Phùng: - Làm được việc lớn phải có thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Ta chưa biết có thiên thời không, nhưng ta có địa lợi, có nhân hòa, cậy vào để thực hành chí nguyện.

Trần Xuân Soạn: - Ấy là lời sách vở.

Phan Đình Phùng: - Xưa, vưa Giản Định Đế không gánh vác nổi việc sơn hà, Nguyễn Biểu, Đặng Dung tôn Trần Trùng Quang lên ngôi Hoàng đế nhằm thống lĩnh trăm quân đánh giặc, chấn hưng cơ nghiệp nhà Trần đã lấy đất La Sơn lập cứ. Lê Lợi dùng Đỗ Gia làm cứ lại lấy đất La Sơn làm phên dậu. Các bậc tiền nhân tin dựa vào dân La Sơn. Bọn thần sẽ tụ hội anh hùng hào kiệt về Đông Thái, Trung Lễ - La Sơn để phất cờ Cần Vương.

Tôn Thất Thuyết: - Trước là vì có mạng vua, sau là vì lòng người, trong bụng các ngươi đã có chủ trương lắm, đã tìm được chỗ nương tựa căn bản. (Vỗ vai Phan Đình Phùng) - Ông cứ vì nước mà hết sức, trên này mọi việc rồi có tôi lo.

Cả hai: - Phụng mệnh vua cử nghĩa binh!

Sân khấu lóe lên nhiều ánh chớp.

Chuyển cảnh

Hai

Mùa xuân năm 1986

Nhà Phan Đình Phùng cũng là Nghĩa sỹ đường của Nghĩa quân ở làng Đông Thái, Đức Thọ.

Nhà ba gian. Gian giữa mở rộng cửa thấy rõ bày biện bên trong: một bộ bàn ghế cổ, phía trong cùng là bàn thờ, hương khói nghi ngút. Trên bàn thờ treo hoành phi, câu đối.

Phan đình Phùng đứng đầu bàn nhìn ra sân. Hai phía tả hữu có Lê Ninh, Ngô Quảng, Lĩnh Khai.

Một cái sân gạch rộng, nghĩa quân xếp hàng dọc, cờ quạt rợp trời, gươm đao sáng loáng. Chiêng trống vang rộn.

Phan Đình Phùng bước ra thềm trong tiếng reo hò của Nghĩa quân.

Phan Đình Phùng: Bớ anh em binh sỹ!

Ta phụng mệnh vua cử nghĩa binh để chống với cường địch cứu quốc gia, song việc đó là việc của mọi người dân, tự mình ta không gánh vác nổi, mới xin những bậc anh hùng chí sỹ, ở trong bốn biển, chín châu ra tài, ra sức cứu nước, giúp dân.

Nghĩa quân: - Chống cường địch, cứu quốc gia!

- Chống cường địch, cứu quốc gia!

Phan Đình Phùng: - Có anh em trên, dưới, bốn phương một lòng đem thân theo việc nghĩa, đánh giặc cứu dân, cứu nước, thề đến chết thì thôi.

Nghĩa quân: (đồng thanh) - Xin thề!

- Xin thề!

- Xin thề!

Lê Ninh: - Phụng mệnh vua, Đình nguyên Phan Đình Phùng đảm nhận chức Phấn trung tướng quân, lĩnh Binh bộ Thượng thư, thống lĩnh các đạo nghĩa binh. Tôi xin truyền báo với chư tướng và anh em nghĩa binh biết để một lòng phụng chỉ, một lòng phục vụ.

 Phan Đình Phùng: - (Khoát tay) - Anh em! Người xưa dạy, lễ không gì lớn bằng phận, phận không gì lớn bằng danh, danh phận là bờ đê của nước, danh phận chính thì cương thường mới lập. Lại dạy, làm tướng phải biết tin cậy anh em quân sỹ, mỗi người là một danh phận cho sự nghiệp vậy. Nên nay ra nhiếp phong cho một số người để gánh vác công việc mà nước non ủy thác.

10 người lính tay phất cao cờ tiến về phía trước và xếp thành một hàng, ngoảnh mặt về phía nghĩa binh. Chiêng, trống nổi.

Lê Ninh: Thừa lệnh tướng quân, tôi gọi các chư tướng sau lên nhận nhiếp phong:

Lê Ninh: Một, nhiếp phong ông Lãnh Khai làm Chánh Lãnh binh.

Lãnh Khai: (Sụp quỳ) - Đa tạ. Lãnh Khai xin phụng mệnh.

Lê Ninh: - Hai, nhiếp phong ông Đổng Nghinh làm Tác vi Phó lãnh binh

Đổng Nghinh: (Sụp quỳ) - Tôi Đổng Nghinh xin phụng mệnh.

Lê Ninh: - Ba, nhiếp phong ông Ngô Quảng làm Tán lý Quân vụ

Ngô Quảng: (Sụp quỳ) - Đa tạ Tướng quân.

Lê Ninh: - Bốn, nhiếp phong ông Đinh Nho Hạnh làm Thương biện Quân vụ.

Đinh Nho Hạnh: (Sụp quỳ) - Đa tạ Tướng quân.

Lính phất cờ, trống nổi đồn, tiếng vỗ tay.

Phan Đình Phùng: - Chúng ta đã phiên chế 12 đồn trại, đóng ở 12 địa điểm trong tổng Việt Yên. Xưởng chế thuốc đạn, rèn gươm giáo đặt ở làng Trung Lễ. Mỗi nơi có người chỉ huy với kỷ luật, điều khoản điều khiển nghiêm minh. Chư tướng, nghĩa binh ghi dạ và nghiêm cần thực thi.

Nghĩa quân: - Xin chủ soái yên tâm!

Nghĩa quân tuần tự ra khỏi sân. Tiếng động râm ran lan về bốn phía. Phan Đình Phùng trở vào nhà, ngồi xuống chiếc ghế kê trong cùng trước bàn thờ. Các tướng lĩnh ngồi hai bên bàn.

Phan Đình Phùng: - Sau lời hịch của tôi phát đi, đã có hơn ba ngàn nghĩa sỹ về dưới cờ chúng ta. Ta đã đánh thắng nhiều trận. Nghĩa binh có khí thế, nhân dân thì nô nức ấm lòng. Nhưng tất cả đang là bước khởi đầu. Các vị có cao kiến gì thêm.

Lê Ninh: - Thưa chủ soái! Khởi kháng được vậy là tốt lắm. Nay phải dẹp bọn trở mặt xu thời ở ngay trong làng ta, trong họ hàng ta.

Lãnh khai: - Xin cho đánh hạ mấy cái đồn trên đất La Sơn.

Phan Đình Phùng: (Đứng dậy, đi đi lại lại, mặt đăm chiêu) - Giặc Pháp đã xếp đặt xong việc Triều đình ở Huế. Vua Đồng Khánh đang đích thân mang theo 200 lính Pháp, 600 lính ta ra Quảng Bình để tiễu trừ nghĩa quân Hoàng Phúc và chiêu phủ dân tâm. Việc giặc kéo ra đánh ta chỉ là ngày một ngày hai.

Ngô Quảng: - Nó ra, ta đánh.

Lê Ninh: - Việc quân phải tính kỹ cái sự, cái thế. Sao nói dễ tuồn tuột như ông vậy. Thưa chủ soái, ta chuyển lên vùng rừng xây căn cứ trước khi nó ra.

Ngô Quảng: (Đứng dậy) - Bỏ đất này, xa dân Đông Thái, Yên Hồ, Trung Lễ khác chi cái cây mất rễ. Xin Chủ soái tính thêm.

Đổng Nghinh: - Còn gia đình, vợ con, mồ mả tổ tiên, ông bà, khi giặc đến ai giữ?

Lãnh Khai: - (Đập tay xuống bàn) - Cờ Cần Vương đã giương, ông còn tính gia đình, vợ con sao?

Lãnh Khai: - (Giận dữ) - Nói như các ông, chúng ta thành ra một lũ hèn!

Đổng Nghinh: - (Bật dậy) - Ông bảo ai hèn? Chuyện binh là sự họa phước, sinh tử hồ đồ được à?

Phan Đình Phùng: (Khoát tay) - Đừng nóng nảy. Đừng quên là anh em ta một nghĩa đảng, nằm một giường.

Im lặng. Những gương mặt bối rối.

Phan Đình Phùng: - Phàm dụng binh, tất phải kiếm một chỗ hiểm yếu để làm gốc, một chỗ địa lợi để giữ gốc. Ở Đông Thái có dân giúp đỡ, có gia đình ở bên mình lúc nóng lạnh. Nhưng không có thế đánh cũng không có thế giữ. Tìm nơi địa lợi có căn bản hiểm yếu xây căn cứ là trúng.

Lê Ninh: - Đặt ra cái thế mà bàn định là đúng lắm.

Lại im lặng.

Mọi người: - Xin nghe theo công nghiệp kinh doanh của Chủ Soái.

Phan Đình Phùng: Ông Đinh Nho Hạnh lên Đại Hàm có tin gì chưa?

Đinh Nho Hạnh: - Dạ! Đã gặp Cao Thắng, người lâu ni hô mưa gọi gió vùng thượng Hương Sơn.

Phan Đình Phùng: - Quân Cao Thắng đang lớn thế. Làm gấp việc hợp quân với lực lượng của ông ta, đánh mạnh vào đồn bốt địch trên đất La Sơn lấy quân lương, khí giới. Đánh càng nhiều, càng mạnh càng hay.

Nhiều người: - Chủ soái cứ giao việc, chúng tôi sẽ liều chết!

Phan Đình Phùng: - Kế sách đã có, các tướng thực hành.

Mọi người lần lượt ra, Phan Đình Phùng ngồi nguyên chỗ, nét mặt đăm chiêu. Lát sau, đứng dậy, chắp tay sau lưng, cúi đầu đi đi lại lại trong phòng rồi bỗng cất tiếng đọc thơ:

“Thức mục kinh thành tử tế khan

Thống tâm quân quốc lệ lan lan

Quyền gian trực dục hoà ngu Tống

Trung nghĩa na vi hận báo Hàn

Thảo mộc son hà phi cựu chủ

Vương hầu đệ trạch dĩ tân nhan

Các trung đệ tử kim hà tại,

Dao vọng Bình Sơn tẩm bất an”[2]

Từ gian nhà bên bà Nguyễn Thị Lan, vợ Phan Đình Phùng bưng một cải khay gỗ nạm bạc, phía trên có một đĩa xôi lạc ra.

Bà Lan: - Từ sáng tới giừ ông chưa ăn chi. Cứ thế ni thì lấy sức mô mà lo việc quân. Giừ thì ngồi xuống, ngồi xuống và ăn đĩa xôi nếp cái với cái lạc bãi sông La.

Phan Đình Phùng: - Ôi bà! Nếu không có bà thì Phùng này có làm nên được trò trổng gì không. 22 tuổi tôi đã thề với bà làm sao cũng chiếm bảng khôi nguyên. Vậy mà rồi trì trật mãi trên 30 tuổi mới đậu Đình nguyên. Tài học của tôi xem ra cũng chỉ trong bờ cõi từ chương cử nghiệp...

Bà Lan: Nhưng ông lấy đức thuần phát trung hậu làm gốc sự học nên được bạn phục, dân theo. Ôi nếu thiên hạ thái bình...

Phan Đình Phùng: - Rồi đến lúc ấy. Nhưng còn phải trải gian nan

Bà Lan: - Gian nan... Bao đận rồi.

Phan Đình Phùng: (Ôm vai vợ) - Tình thế cuộc đối đầu này lại thêm đận gian nan nữa. Tôi tính phải có địa thế căn bản; vậy thì, bà hãy cùng các con lên núi với tôi.

Bà Lan: - Ông đi mô, tôi theo, theo để chăm nom ông. (Ngồi xuống, chăm chăm nhìn chồng) - Nào ông ăn đi. Ăn đi cho tôi yên lòng.

Phan Đình Phùng: (Xúc động) - Bao năm tôi đã giúp được gì cho bà? Lúc bà đói khát, lúc con cái ốm đau, lúc bị lâm bệnh, tôi vô tích sự ở chốn quan trường, mặc một mình bà lo trong, liệu ngoài. Chao ôi, tôi hỏng quá..

Bà Lan: - Ông đừng nói thế. Ông đã từng dạy mẹ con tôi là cái gốc luân lý có ba điều cốt tử: vua, thầy, bạn. Ông giữ gìn cái gốc ấy mà làm nên sự nghiệp.

Phan Đình Phùng: - Một phần nhỏ thôi, còn thì đang ở phía trước.

Bà Lan: - Cái gánh giang san trên vai ông đang nặng lắm đó.

Phan Đình Phùng: Bà nói trúng. (Đi đi lại lại. Như một mình) - Thành tan, vua chạy, nước mất…dồn đến một lúc, thảm lắm, nặng lắm.

Bà Lan: - Ông ăn đi. Ăn xong lại nói chuyện vua, chuyện nước, chuyện dân.

Bà Lan đẩy đĩa xôi về phía chồng, nhìn ông một lúc rồi đi sang gian nhà bên

Phan Đình Phùng: (Một mình) - Ôi! nhân cảm sinh ra khí, nhân khí sinh ra dõng...

Phan Đình Phùng thắp một nén hương vái ba vái rồi cắm lên bàn thờ.

Chuyển cảnh

Đại đồn Ngàn Trươi.

Một gian nhà rộng, sâu hút về phía trong, nơi có những cánh cửa khép hờ. Chung quanh, rừng lợp lên rừng. Phía ngoài Cao Thắng ngồi cạnh cái bàn làm bằng nửa cây gỗ. Sau lưng, trên vách gỗ treo mấy khẩu súng trường kiểu Pháp 1984.

Một con đường xuôi xuống sông Ngàn Trươi. Hai bên đường, dưới tán lá cây, là ụ đất liền nhau.

Buổi sáng, sông xanh biếc, lặng lẽ.

Lão Thủ từ đền Trầm Lâm và cô Tám từ dưới bờ sông lên.

Lão Thủ từ: - Một mình luồn rừng Quảng Bình ra được đây, người liễu bồ phận gái nhưng cô cũng có hổ thỉ chí trai lắm, hả?

Cô Tám: - Già như cụ mà còn tháng mấy lần vô Sơn Phòng ra Vũ Quang, thì quả là chí trai cao núi.

Lão Thủ từ: Nhằm nhè chi, hỉ.

Họ lội qua một con suối cạn

Lão Thủ từ: Ra cô nghe tiếng mà lội suối, vạch rừng tìm đến.

Cô Tám: - Dạ, phải. Tui đã lênh đênh dọc sông La bốn tháng ni. Khổ cực và đói khát kể chi mô.

Lão Thủ từ: - Ra là cái danh gắn với tâm với uy, không động, cái danh cũng bay đi, bay đi bốn phương, tám hướng.

Cô Tám: - Lão đang nói về cụ Phan hay tướng quân Cao Thắng?

Lão Thủ từ: - Rứa cô đang nghĩ tới ai, hỉ?

Cô Tám: - Cả hai người ạ.

Lão Thủ từ: - Ông Cao Thắng tuổi Thìn sinh giờ Ngọ, tài năng của bậc vương bá, tính nôn nóng, thăng trầm bất định, hành sự phải thận trọng mới thành công. Duyên hợp tuổi Mùi. Cô Tuổi Mùi, phải không? Nét mặt ấy là Mùi rồi, hỉ?...

Cô Tám ngồi xuống cạnh một gốc cây, sửa tóc. Ông lão đứng, cây gậy trong tay vẽ ngoằn ngoèo lên mặt đất. Im lặng.

Cô Tám: - Cảnh nhà tui cụ tỏ. Tui đi tìm chỗ thực hành đền nợ nước trả thù nhà, chứ mô phải đi tìm cơ duyên .

Lão Thủ từ: - Cái duyên số nó nằm ngoài cái chí...

Họ tiếp tục đi

Lão Thủ từ: - Chốn này nghiêm ngặt lắm.

Hai lính, một cầm gươm, một đeo súng chắn đường hai người

Lính 1: (quát) - Đứng lại!

Lính 2: - Lão già, lão dẫn ai đến đấy.

Lão Thủ từ: - Khách quý hiền. Xin yết kiến tướng quân Cao Thắng.

Lính l: - Đợi đấy. (Đi về phía Cao Thắng, lát sau ra) - Tướng quân bảo cho vô.

Lão Thủ từ: - Ta không vô. Ta ra xưởng đúc súng. Ta có việc của ta, hỉ.

Lính 2: - (cười) - Nỏ có ai mời lão vô. Nỏ có ai cho lão vô...

Cao Thắng sửa sang áo quần, rút cây gươm lệnh đặt ngang trên mặt bàn phía trước mặt.

Cô Tám: (Từ ngoài vào): - Kính chào quan Đổng nhung.

Cao Thắng: (Nhìn thẳng vào mặt người đàn bà, giọng oai nghiêm) - Nhà chị làm thế nào mà vào được đến đây? Nhà chị gặp bản chức chắc có cao kiến dạy bảo?

Cô Tám: (Ngồi xuống cái ghế đối diện với Cao Thắng) - Thưa tướng quân! Thiếp tui nỏ có cao kiến chi. Đường xa lặn lội đến đây để trình lên tướng quân một lời thỉnh nguyện.

Cao Thắng: - Nhà chị cứ nói.

Cô Tám: - Thiếp tui là con gái quan Chưởng vệ Hoàng Phúc. Đồn sơn phòng Quảng Trị vỡ, cha tui và tướng đội Lê Doãn tập hợp dân chúng dựng cờ khởi nghĩa. Tuy phận gái nhưng từ nhỏ đã học võ nghệ, kiếm cung, tui cũng vô trận mạc. Lê Doãn tử vong. Rồi sau cha tui cũng lâm nạn. Nghĩa đảng lìa tan. Tấm thân tui lênh đênh trôi giạt.

Cao Thắng: - Rồi sao?

Cô Tám: - Tui rời đất Quảng Bình đến đây xin đứng dưới cờ.

Cao Thắng: - Chị là con gái Tướng quân Hoàng Phúc? (Một mình) Phận gái gặp cảnh éo le vào cái thời nhiễu nhương, loạn lạc...

Cao Thắng đứng dậy, cúi đầu đi dọc bàn. Chốc chốc lại nhìn cô Tám. Tiếng gió thổi trong đại ngàn.

Lặng lẽ.

Cao Thắng: - Chị Tám này... Chị là một nữ nhi can trường.

Cô Tám: (Xúc động) - Phu nhân của Tướng quân mới là can trường dũng khí.

Cao Thắng: (Ngạc nhiên) - Chị Tám biết Út Kiểu, vợ tôi ư? (Cúi đầu buồn bã).

Cô Tám: - Dạo tui với chị Trang, chị Điểm đi đò dọc trên sông La, sông Lam có bữa đỗ thuyền ở Chợ Tràng được gặp cô út Kiều đi quyên góp binh lương. Bữa đó, chị em chúng tui lên kế hoạch cảm hoá anh em lính tập để nhổ đồn Chợ Tràng nhưng việc không thành.

Cao Thắng: (Như một mình) - Cô ấy không còn nữa... Cô ấy bỏ tôi đi rồi!

Cô Tám: - Tui biết... Xin được chia nỗi đau cùng tướng quân.

Cao Thắng: - Đời tôi từ nhỏ đã ngộn ngốt đau thương rồi. Nó dạy tôi cách chịu đựng rồi. Mà đâu riêng tôi, đồng bào vạn, triệu người nữa... Tôi hiểu lòng chị. (Xa xăm) Ước chi thiên hạ thái bình có lúc giãi bày niềm riêng...

Cô Tám: (Một mình) - Chờ khi thiên hạ thái bình mới giãi bày nỗi niềm riêng...

Cao Thắng đi về phía con dường dẫn xuống sông Ngàn Trươi, đứng một lúc rồi quay lại.

Cao Thắng: (Bối rối) - Còn việc đứng dưới cờ cần Vương của Tám thì phải yết kiến Phan nguyên soái.

Cô Tám: (Như sực tỉnh) - Tướng quân xử trí sao tui được nhờ rứa.

Cao Thắng và cô Tám đi về phía trong. Nổi lên tiếng tù và hiệu thổi. Họ đến trước cánh cửa khép hờ. Cánh cửa từ từ mở ra. Phan Đình Phùng xuất hiện.

Cao Thắng: - Chủ soái an khang.

Phan Đình Phùng: - Miễn lễ. Tướng quân tự nhiên.

Nhìn cô Tám, rồi nhìn Cao Thắng

Cao Thắng: Trình chủ soái. Người này là ái nữ của quan cố chưởng vệ Hoàng Phúc ở Quảng Bình ra.

Phan Đình Phùng: - Ái nữ của Hoàng tướng quân ư? Bản soái có quen biết người. (Lại gần cô Tám) Nhưng sao cô lại lưu lạc đến đây

Cô Tám: (Chắp tay vái cụ Phan) - Bẩm chủ soái. Từ khi phụ thân tử nạn, nghĩa đảng lìa tan, tui phải lang thang trốn tránh, rồi đến đây để xin chủ soái được phục vụ nghĩa quân báo quốc thù, phụ hận.

Phan Đình Phùng: (một mình) - Gia nhập nghĩa quân ư?

Cô Tám: - Chủ soái yên lòng. Tui tuy là phận nữ nhi nhưng được cha dạy dỗ, rèn luyện từ hồi mới 15 tuổi, lại thêm những năm xông pha cùng nghĩa quân trên đất Quảng bình, chẳng nề hà mũi tên hòn đạn.

Phan Đình Phùng: Ta không nghi ngờ nghĩa khi, mưu mô đảm lược của cô. Ta đã biết nhờ có cô cấp tin giặc mà nghĩa quân phục kích đánh thắng trận Dốc Tứ Mỹ và phá tan căn cứ Tràng Sim. Còn ý định cướp đồn Chợ Tràng. Nam nhi mấy người sánh kịp. Ta băn khoăn là bởi... tướng quân Hoàng Phúc đã hy sinh cho đất nước, chỉ còn mỗi cô, rồi liệt sỹ Lê Doãn... Ta nghĩ, mũi tên, hòn đạn không chừa một ai... (Với Cao Thắng) - Ý Tướng quân?

Cao Thắng: - Đã có bao nhiêu nữ tướng làm nên việc lớn. Chủ soái hãy thu nạp cô Tám. Cô ấy xứng là con gái Hoàng Phúc tướng quân.

Phan Đình Phùng: (Với Cô Tám) - Hồi mới phát cờ khởi nghĩa, được dăm bảy khẩu súng cướp được của giặc Pháp. Sau Tướng quân Cao Thắng chế tạo được súng, rồi lãnh đạo nghĩa quân đúc súng, số lượng lên đến hàng trăm khẩu. Nhờ thế mà nghĩa quân đánh nam, dẹp bắc, thắng trận này tiếp trận khác, khiến giặc Pháp có trong tay lương đầy, súng mạnh mà phải lúng túng. Nhưng nay thì thuốc đạn thiếu, thiếu lớn. Cô đã từng sang Xiêm. Nay cô lại phải sang Xiêm. Chỉ có Xiêm mới giúp ta được. Làm được không?

Cô Tám: - Thưa Tướng quân, việc ấy tui đã quen.

Phan Đình Phùng: - Tốt quá. Trước khi sang Xiêm, cô xuống núi đốc thúc việc tiếp tế lương thực cho nghĩa quân và... ta nhờ cô gặp người thân của ta... Chao... Ta sinh ra gặp phải lúc gia biến, quốc biến, thê biến, tử biến.

Cô Tám: - Thời loạn,việc nước, việc nhà mấy khi trọn vẹn, thưa ngài. Bao chính nhân quân tử lấy việc nước làm trọng vẫn không khỏi canh cánh việc nhà đó thôi.

Phan Đình Phùng: - Cô an ủi ta đó ư? Giỏi lắm! Một người đàn bà ba chìm, bảy nổi vẫn nén cái đau trong lòng để an ủi người khác.

Cô Tám: - (Chắp tay) - Bẩm. Tui đâu dám.

Cao Thắng: (Một mình) - Tấm lòng đàn bà thăm thẳm

Cô Tám: - Chủ soái và tướng quân yên tâm. Tám này nguyện làm được công việc mà nghĩa quân phó thác.

Cao Thắng tiễn cô Tám đi. Họ đứng lại bên đường

Cao Thắng: - Đi luôn à?

Cô Tám: (Nhìn Cao Thắng) - Ở lại thì ai đi?

Cao Thắng: - Việc nước làm trọng. Thôi Tám đi đi. Cẩn thận giữ thân đấy.

Cô Tám đi. Cao Thắng nhìn theo rồi trở lại đến bên Phan Đình Phùng

Phan Đình Phùng: - Cô ấy đi rồi à?

Cao Thắng: - Cô ấy đi rồi... Đi vào chốn hiểm nguy mà cứ tỉnh bơ như đi chợ Phổ bán chè ấy.

Phan Đình Phùng: - Bao người như thế.

Lính 1: - Bẩm Chủ soái và tướng công! Tướng Lãnh Khai dẫn tên nghịch tặc Trương Quang Ngọc về, xin được vào ạ.

Phan Đình Phùng: - Vào ngay. Ta đã nóng ruột, sôi gan chờ đợi mấy ngày.

Lãnh Khai vào theo sau hai nghĩa bỉnh áp dẫn Trương Ngọc

Lãnh Khai: (Lễ) - Bẩm, việc Chủ soái giao tôi đã làm xong.

Cao Thắng: (Tay nắm đốc gươm): - Kẻ bán vua đây ư?

Lãnh Khai: - Dạ. Chính hắn. Hắn là Lãnh binh, phụ trách đội quân thiện xạ. Nên Hoàng Thượng không ngờ.

Phan Đình Phùng: - Sao ông Trương Quang Thủ lại có một thằng con trên quên ơn tiên đế, dưới trái nghĩa tôi con, phản phúc, bội nghĩa thế này...

Trương Quang Ngọc: - Hồi ở Sơn phòng lão thủ từ Miếu Trầm Lâm đã báo vận hạn cho các người. Giừ chịu chưa?

Lãnh Khai: - Hỗn hào!

Lão Thủ từ Miếu Trầm Lâm ào vào phòng, theo sau là lính 2

Lính 2: - Bẩm các tướng, ông lão nằng nặc xin vào gặp Chủ soái, tôi không ngăn được.

Ông Lão: - Lão phải nhìn lại cái mặt hắn, thằng ruột cạn đĩa dầu đèn dầu.

Phan Đình Phùng: (Với ông Lão) - Lão đấy ư? Ta nhớ đã gặp nhau ở Sơn phòng. Lão đã báo trước cho ta kẻ phản bội này... Sau đó ta bận việc binh mà quên lời tiên báo của lão để đến nỗi Thánh thượng rơi vào vòng tay bụi bặm của bọn ngoại bang. Ta có tội với vua. (Ngoảnh về phía rừng vái lạy) - Xin Thánh thượng gia ân tha thứ cho tội lỗi của lũ thần... Than ôi, tội này bao giờ lũ thần trả được...

Cao Thắng: - (Với Phan Đình Phùng) - Tướng công hãy bình tâm. Chỉ vì ông Tôn Thất Thuyết chạy sang Tàu bảo là đi cầu viện, bỏ vua giữa đường với một nhúm quân sỹ không đáng tin cậy. Tội ư? Tội ở ông Thượng thư kia.

Phan Đình Phùng: - Chúng ta không đuổi được quân ngoại bang ra khỏi bờ cõi nước nhà há không phải là tội đó sao?

Ông Lão: - Trước khi lách rừng, lội suối đến gặp tướng quân, ta đã chưng thường ở Miếu Trầm Lâm cầu an cho Thánh Thượng. Nghiệp gặp trắc trở nhưng mệnh không sao. Các tướng yên lòng mà lo cho tứ hải quần chu để nghiệp lớn thành mà khỏi đẩy chúng sinh vào bể khổ.

Phan Đình Phùng: - Với kẻ nghịch tặc này, theo ý cụ xử thế nào?

Ông Lão: - Ấy là cây độc. Là hoạ. Độc và hoạ. Hoạ và độc.

Phan Đình Phùng: - Còn chờ gì nữa hả? Chém! Chém!

Lãnh Khai và hai nghĩa binh kéo Trương Quang Ngọc ra.

Trưong Quang Ngọc: (giãy giụa) - Con xin...

Phan Đình Phùng: (Như với mình) - Bao người có khí phách tâm chí như núi cao, trước kẻ thù chỉ biết can trường quyết liệt, nhưng cũng không ít kẻ hèn nhát, cầu vinh, hưởng lợi buôn chúa, bán vua.

Khi mới phất cờ, binh, lương không có, ta đã quyết một lòng đánh địch, thề đến chết mới thôi, không gì làm cho ta lui sợ. Huống chi nay đã có căn bản hiểm yếu, quân thế và binh lực đã mạnh, văn thân võ sỹ xa gần kéo về tụ hội. Vậy mà ta cứ nặng lòng, buốt đầu lo nghĩ, không có được một nụ cười thoải mái với vợ con, anh em đồng chí, đồng cừu.

Cao Thắng: - Bẩm chủ soái. Đại trượng phu đền nợ nước thì lấy nước, lấy đồng bào làm căn bản. Chủ soái là người tâm viên chí cường đã làm như thế.

Chuyển cảnh

Bốn

Đại cảnh.

Cảnh xuất quân hào hùng.

Lớp lớp tướng sỹ trống chiêng náo động, cờ xí rợp trời, dẫn đầu là Phan Đình Phùng và Cao Thắng.

Tiếng vọng:

- Ta phụng mệnh trời ở ngôi thiên tử lúc nhà nước có việc hoạn nạn nguy nan tứ phía, dân gian khổ trăm bề. Ngoài thì giặc Pháp lăm le, trong thì triều đình lăng loàn, quyền thần hống hách. Kinh đô thất thủ dần mòn. Noi gương tiên tổ ta ra chiếu cần Vương gọi chí sỹ bốn phương tụ hội nghiến răng, rụng tóc, giết giặc cứu nước cứu dân.

(Chiếu Cần Vương của Vua Hàm Nghi)

- Lời Phan Đình Phùng:

- Ta phụng mệnh Vua, noi truyền thống hùng anh, quẳng nghiên bút, cầm lấy gươm đao, cử nghĩa binh chống cường địch. Hỡi các bậc anh hùng chí sỹ ở trong bốn biển chín châu cùng ra tài ra sức quyết một lòng vì non sông, xã tắc.

- Cảnh trên sông: Những đoàn thuyền chiến. Đứng đầu mũi thuyền dưới cờ thêu 2 chữ vàng: Cần Vương là Phan Đình Phùng và Cao Thắng. Tiếng hò, hô dậy sóng trên nền hát giặm:

Trống giong cờ mở

Trăm tướng, nghìn quân

Nhất thề đánh Tây

Nhất tâm ưu ái.(*­)

Cảnh trên núi: Lớp lớp nghĩa binh, gươm trần sáng loá, súng dựng uy nghiêm dưới những tán lá cây nghiêng ngửa trên nền hát giặm:

Tiền quân đi trước

Giải Chánh, Lãnh đi sau

Cờ phất phất ngọn lau

Giáo mác đà như cỏ

Ơn trời cao thuận gió

Cho thắng trận quân bền

Để quan lớn trẩy lên

Lên Sơn phòng như cộ (cũ)

Về Đại đồn như cộ (**)

- Cảnh trong làng quê: Những đoàn người gồng gánh mang vác chuyển tải lương thực lên núi cho nghĩa quân cần Vương trong tiếng thúc giục và hò reo trên nền hát giặm:

Dân Hà Tĩnh kiên gan

Đưa bạc tiền cung tiến

Hải vật đồ chê chán

Gạo thịt cứ miên man

Ở một cõi phòng san

Đủ mọi màu tứ thú (***)

- Cảnh trên núi đá: Phan Đình Phùng đứng uy nghiêm trên đỉnh núi chỉ huy lớp lớp nghĩa binh rượt đuổi giặc:

Phan Đình Phùng: - Hỡi ba quân! Tướng sỹ một lòng trung nghĩa, thà chết không lùi, đánh giặc đến cùng, giữ nguyên cương thổ cho giang sơn bốn cõi thái bình ... Hỡi ba quân!...

Năm

Đại đồn Ngàn Trươi.

Phan Đình Phùng ngồi viết bên cái bàn gỗ, thấy rõ màu gỗ mới bào. Hai bên là lính thị vệ. Phía sau là các tướng Cao Thắng, Lê Ninh, Ngô Quảng, Lãnh Khai. Phía trái sân khấu nhìn thấy rất đông quân lính đang luyện võ trên một bãi đất bằng. Xa hơn chút nữa là xưởng đúc vũ khí. Ánh lửa bệ rèn chập chờn.

Phan Đình Phùng đứng dậy đi đi lại lại. Mặt đăm chiêu.

Phan Đình Phùng: Mời các ông ngồi. Tôi mời các ông đến đây để nói đôi điều về tình thế và để nghe cao kiến của các ông.

Các tướng: Bẩm, chúng tôi đã chú tâm.

Phan Đình Phùng: Thưa anh em, cuộc khởi nghĩa của chúng ta rộng ra bốn tỉnh: Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình. Mấy năm qua đã làm cho địch mất ăn, mất ngủ. Nay thì có nhiều sự bất lợi. Ông Tôn Thất Thuyết sang Tàu tưởng xin được viện binh không ngờ cùng với mấy người tòng vong bị dẫn yên trí ở Thiều Châu. Hoàng Thượng thì bị Trương Quang Ngọc làm phản hiếp giá, đang nằm trong tay giặc Pháp. Triều đình Đồng Khánh đã sai Khâm sai Nguyễn Thân kéo hàng ngàn quân với nhiều quân lương, quân khí ra Hà Tĩnh. Chúng chặn đường tiếp tế của đồng bào cho nghĩa quân, âm mưu vây chặt Vũ Quang, dẹp chúng ta. Nhiều kẻ hèn nhát, cam tâm làm tay sai cho giặc đang lợi dụng đục nước béo cò làm bao chuyện vô đạo. Tình thế vậy, xin cao kiến của các ông.

Đổng Nghinh: - Tình thế như Chủ soái đã nói, thì có hai con đường ta phải tính là quyết nghinh địch hay rút quân vào sâu hơn, có thể sang Ai Lao.

Ngô Quảng: - Sang Ai Lao là kế sách bảo toàn lực lượng ư?

Lãnh Khai: - Ồng nói vậy là bỏ chạy? Là nó chưa lên đây mà ta đã chạy. Nói thế mà nghe lọt tai ư?

Phan Đình Phùng: Bình tĩnh. Nghinh địch hay lùi quân là việc ta đang cần bàn.

Ngô Quảng: Lùi quân để bảo toàn lực lượng.

Lãnh Khai: Đánh đến cùng.

Đổng Nghinh: Lùi quân.

Ngô Quảng: Đánh!

Phan Đình Phùng: (Khoát tay) - Các tướng bình tĩnh. (Với Cao Thắng) - Ỷ Đổng nhung Tướng quân?

Cao Thắng: Dạ thưa, tôi tính phải có những trận đánh lớn về đồng bằng để mở rộng địa bàn đất đai và dân cư, nếu không nghĩa quân ngày càng hao mòn, căn cứ ngày càng bị thu hẹp, lương thực khó khăn. Cứ thế ta sẽ, khó mà giữ được Đại dinh.

Im lặng

Phan Đình Phùng: - Tất cả một lòng: Đánh.

Cao Thắng: - Chủ soái quyết vậy là theo đúng thế binh, hợp với ý nguyện muôn người.

Lãnh Khai, Ngô Quảng: Đánh! Nam quốc vạn tuế!

Cao Thắng: - Bẩm! Chủ soái giao cho tướng Lãnh Khai bảo vệ Đại đồn, các tướng khác chỉ huy quân đánh xuống đồng bằng. Còn thần xin cầm quân đánh lấy tỉnh Nghệ An.

Phan Đình Phùng: - Tại sao lại đánh lấy tỉnh Nghệ An?

Cao Thắng: - Vì quân Pháp lấy tỉnh Nghệ An làm căn bản. Nếu ta ngồi giữ đây mãi đã chẳng phải kế cứu an, mà lấy gì kích động lòng người để mưu toan việc lớn. Bao nhiêu nghĩa đảng trong nước đang trông ngóng vào ta, nếu ta đánh mạnh thì họ sẽ ùa theo, tạo thành thế mạnh lắm. Lấy rừng núi làm chỗ thủ thành thì không xong. Bởỉ vậy ta phải ra tay trước, vừa đánh xuống đồng bằng vừa đánh ra phía Bắc. Mở lấy sinh lộ.

Phan Đình Phùng: - Nếu đánh Nghệ An, Pháp kéo quân từ Quảng Bình ra, Thanh Hoá vào thì tướng quân tính sao?

Cao Thắng: - Tôi sẽ đánh thần tốc để Pháp trở tay không kịp. Tôi hạ được thành nghệ An rồi các đạo quân thứ của ta thừa thắng ấy mà đại tấn chiếm Quảng Bình, Hà Tĩnh. Nghĩa sỹ khắp nơi sẽ nức lòng mà cùng nổi lên. Ta phải chủ được dải đất Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình mới làm nên nghiệp lớn.

Đổng Nghinh: (Băn khoăn) - Nhưng nếu tiến quân ra Nghệ an mà gặp bất lợi?

Cao Thắng: - Lợi và bất lợi là lẽ thường của trận mạc

Phan Đình Phùng: - Tướng quân nhất quyết sẽ cầm quân ra Nghệ An?

Cao Thắng: - Dạ, mong chủ soái thuận.

Phan Đình Phùng: - Lần này ông đi lòng tôi cứ không yên.

Ngô Quảng: - Xin Chủ soái bình tâm.

Cao Thắng: Xin tướng quân lo việc lớn ở Đại dinh chờ Thắng này trở về.

Phan Đình Phùng: (Như với mình) - Có lùi được sang mùa xuân?

Cao Thắng: - Thưa, việc lớn đã đến lúc không thể trì hoãn. Bếp than chống Pháp đang âm ỉ cháy ở đất Nghệ, tôi đi làm ngọn gió cũng đã là cơ hội.

Phan Đình Phùng: - Ôi Cao Thắng! Ông trí dũng hơn người. (Đặt tay lên vai Cao Thắng) Ta lệnh chọn một ngàn quân tốt, tập luyện cho thật giỏi, súng đạn phải chu tất, đường đi nước bước phải tính toán căn ke, cẩn mật, lương thực phải đủ đầy. Ta sẽ xem ngày lành tháng tốt. Chỉ mong tướng quân cẩn thận không khinh xuất. Ta sẽ lệnh cho Thứ quân Nguyễn Mậu ở Anh Sơn hổ trợ ông.

Lão Thủ từ: (Như một mình) - Phương đông thuộc Hoả, phương Tây thuộc Kim. Nay lấy hoả khắc kim tức là lấy lửa nung cho sắt, cho vàng chảy ra. Cho nên trang phục của quân sỹ phải toàn màu đỏ.

Phan Đình Phùng: - Lão nói trúng ý ta. Toàn màu đỏ. Và nữa, ta dặn thêm, với quân sỹ phải lấy tình anh em mà thu phục, lấy quân lệnh như sơn mà điều khiển. Nhớ... Ông là một nửa con người tôi...

Cao Thắng: Thần nhớ...

Phan Đình Phùng: - Ta sẽ chọn ngày, ban lệnh xuất binh. (Một lúc) - Biết khi nào Cô Tám về không?

Cao Thắng (Bần thần) - Dạ không. (Một lúc) - Việc nhà tướng quân...Tôi về cùng định liệu.

Phan Đình Phùng: Yên tâm mà đi và mang chiến thắng về.

Cao Thắng: Thần xin phụng mệnh. (Cúi đầu lễ tạ).

Phan Đình Phùng, Cao Thắng và Đổng Nghinh,Lãnh Khai, Ngô Quảng đi về phía cửa.

Qua khung cửa thấy những dãy núi đồi trùng điệp nhấp nhô, xanh thẳm. Tiếng binh sỹ hò reo lẫn trong tiếng gió rừng ào ào. Rồi tất cả lắng xuống.

Ấm nhạc nhẹ dần, khắc khoải.

Chuyển cảnh

                               Sáu

Nghị sự đường. Một màu trắng tang tóc. Giữa là bàn thờ Cao Thắng. Hai bên sân khấu chi tướng mặc quần áo trắng đầu chít khăn trắng, tay cầm gươm trần đứng thị kinh. Bức thưng bằng gỗ vàng óng nổi bật hai câu ai liễn thờ:;      

Câu 1: Hữu chí phất thành,anh hùng dĩ hĩ.”

“Vị tiệp tiên tử, thiên ý vị hà.

Câu 2: “Công cầu tất thành, kích tiếp thệ ngôn thanh quốc tặc.

Sự nan dự liệu, cứ yên kim dĩ thiểu tư nhân.”[3]

Âm nhạc ai oán.

Phan Đình Phùng mặc đồ tang, gục đầu trước bàn thờ Cao Thắng. Chốc chốc ông lại ngửng đầu, đôi mắt nhòe lệ, trống rỗng nhìn vào khoảng không.

Phan Đình Phùng: - Ông Cao Thắng ơi! Trời cao đất dày ơi!...Hu! Hu!...Hu!...

Tướng sỹ trong, ngoài khóc theo cụ Phan. Tiếng khóc nức nở, não nề đầy tiếc thương.

Phan Đình Phùng: - Xưa kia, Khổng Minh phó thác việc phục hưng Hán thất cho Khương Duy được mấy năm. Còn ta...Việc lớn đang dang dở mà ta đã già cả... Sao ông lại bỏ tôi mà đi? Ông Cao Thắng ơi!... Trước khi đi, ông nói với tôi việc nhà ông về cùng tôi bàn liệu. Vậy sao ông không về?

(Đi về phía trước bàn thờ, hai tay chơi vơi)

Trên trời cao, giữa cửu trùng ông có thấu rằng tôi, các chư tướng và nghĩa quân cần có ông kề cạnh biết mấy nhiêu.

Ông Cao Thắng ơi, sống khôn chết thiêng ông hãy về với tôi, với anh chị em nghĩa quân.

Tiếng khóc lẫn tiếng gió rừng, tiếng mưa rơi.

Im lặng.

Nghị sự đường mờ dần.

Cảnh phục hiện

Đại cảnh cuộc chiến ở đồn Nỏ.

Một bên là nghĩa quân Cần Vương do Cao Thắng chỉ huy.

Một bên là lính Triều đình do Một Phiến chỉ huy.

Tất cả hổn độn trong ánh sáng lờ mờ, tiếng súng nổ, tiếng hò hét giữa ánh chớp loang loáng.

Cao Thắng hiện lên sừng sững giữa trận tiền, trên nền tiếng Phan Đình Phùng đọc Văn tế:

“Thanh bửu kiếm mười năm sẵn có, đấng anh hùng dùi mài mãi chưa thôi.

Áng nhung trường một phút như không, con tạo hoá ghét ghen chi lắm thế

Nghĩa đồng ưu tưởng lại luống đau lòng.

Tình vãng điếu nghĩ càng thêm rơi lệ.

Nhớ tôn linh

Hào kiệt ấy tài.

Kinh luân là chí.

Vén mây nửa gánh giang sơn

Vỗ cánh bốn phương hồ thỉ.

...Nào ngờ đâu một sớm không chừng, mơ màng đạn lạc tên bay, trường chiến đấu biết đâu là số hệ.

Trong ba kỷ xuân thu tuy chửa mấy, trên yên ngựa đòi phen roi thét, trọng cương thường quyết nở mặt nam nhi.

Ngoài mươi sương sự nghiệp biết chừng nào, trước cửa viên bỗng chốc sao sa, thu linh phách vội cướp công tráng sỹ. ...Thôi thôi. Cửu thế lầu vàng đành kẻ khuất, đem thân bách chiến để tiếng thơm cho tỏ mặt anh hùng.

Súng đồng gươm bạc mặc người còn, truyền lệnh ba quân thét hơi mạnh để xây nền thịnh trị.

Thương ôi là thương. Kể sao cho xiết.”

Mờ dần.

Cao Thắng ngã vào cuồn cuộn sương khói.

Trở lại Nghị sự đường.

Lão Thủ từ trang phục Thầy cúng, tiến đến quỳ trước bàn thờ Cao Thắng. Bên cạnh lão là Phan Đình Phùng, quỳ, tay cầm ba nén nhang. Tướng lĩnh và Quân sỹ quỳ, nhiều hàng dài.

Lão Thủ từ: - Niên hiệu Hàm Nghi thứ 9 năm Quý Tỵ, tháng 10, ngày 28; Tín chủ con là Phan Đình Phùng ở thôn Đông Thái, huyện La Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, trú ngụ cùng nghĩa quân Cần Vương tại núi Vũ Quang, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh. (Nhị vái!)

Đứng trước linh tiền thay mặt anh em tướng lĩnh cùng trăm ngàn nghĩa binh khắp bốn phương non sông đất nước, lễ bạc kính dâng trầu cau, chén rượu, khẩu súng, thanh gươm với tấm lòng thành thề nguyện cùng chí, cùng tâm sống, chết vì nghĩa cả kính dâng tướng quân Cao Thắng. (Nhị vái!)

Trong khói hương nghi ngút và nước mắt tiếc thương giữa rừng sâu, núi thẳm trăm ngàn quan liêu quỳ lạy xin cầu nguyện Tướng quân siêu thoát. (Tam vái!)

Tịnh phách ví dầu thanh sáng hộ phen này cho tướng mạnh, quân bền. Linh hồn khôn thiêng rồi ngày khác sắc phong điện tế (Tam vái)

Phan Đình Phùng đứng dậy dâng hương. Các tướng lĩnh lần lượt dâng hương. Sân khấu mờ tối dần. Những ngọn đuốc sáng dần. Những đốm lửa trên những nén hương bùng lên

Phan Đình Phùng: (Đột ngột vung kiếm, mắt sáng quắc. Giọng như lệnh vỡ): - Các tướng đâu?

Năm tướng quân từ trong đám binh sỹ bước ra quỳ trước Phan Đình Phùng

- Lệnh cắt hai mươi bảy người canh gác quanh nơi tướng quân Cao Thắng yên nghỉ. Tang lễ kéo dài bảy ngày. Để ông Ngô Quảng ở lại còn tất cả các tướng tập trung quân sỹ, xuôi sông Ngàn Sâu quyết một phen sống mái với giặc.

Các tướng: - Quyết một phen sống mái với giặc!

Phan Đình Phùng: (Lặng. Nghĩ suy. Rồi tiếp, giọng buồn hẳn)

- Khoan. Chờ qua ngày tiễn tướng quân Cao Thắng.

Nhiều người: Xin tướng quân đừng bi thiết quá.

Tướng quân giữ gìn sức khoẻ.

Nhiều cô gái mặc đồ trắng mờ ảo như những nàng tiên tay nâng lửa nến xếp hai hàng đến trước bàn thờ Cao Thắng trên nền Văn tế:

Văn tế: - Non Thiên nhẫn phất phơ cơn gió thổi, thương người tiết nghĩa ngậm ngùi thay.

Nước Tam Soa thấp thoáng bóng trăng soi, nhớ kẻ trung trinh ngao ngán nhẽ.[4]

Chuyển cảnh

Bảy

Mùa hè 1894. Đồn Linh Cảm.

Cổng hình vòm, tua tủa những thanh sắt nhọn hoắt chĩa lên trời, nhìn ra một ngã ba đường đất đỏ au.

Hai lính tập ôm giáo đứng gác.

Khoảng gần sáng, không gian lờ nhờ.

Tiếng cú rúc xa xa.

Tiếng trống canh.

Lính 1: - Này, mày có sợ ma không?

Lính 2: - Có, không mà sợ.

Lính 1: - Mày nói cứ loanh quanh. Tao hỏi có hay không có mày lại trả lời có rồi không. Đúng là đầu củ nâu.

Lính 2: - Mày bảo ai củ nâu hả?

Lính 1: - Tao bảo rừng rú Vũ Quang ấy. Nhiều ma lắm.

Linh 2: - Nếu có ma thì... Thì ông Nguyễn Thân đã bị...

Línhl: (Đưa tay bưng miệng lính 2, ngó nghiêng), - Suỵt.

Lính 2: - Ông ấy đào mả cha, mả mẹ ông Phan...

Nếu có ma thì đã chẳng phải bị... (làm động tác cắt cổ).

Đội Tuần: (Ngoài vào, nắm cổ áo hai lính): - Đứa nào? Đứa nào vừa nhắc tên Phan, hả?

Hai lính: - Dạ bọn con đâu dám.

Lính 1: (Chỉ tay lính 2) - Hắn hỏi con có ma không. Con bảo là không.

Lính 2: Hắn hỏi con có ma không con bảo là không...

Đội Tuần: - Canh gác cẩn thận, không đi, không rời khỏi cảnh cổng, nghe không, hả?

Hai lính: - Không rời cảnh cổng. Nghe không, hả?

Đội Tuần: Mày dặn tao đấy à? Ranh con. Láo này. (Đánh lính)

Lính 1: - Cánh tay cứng như thép của thầy, nếu không may mấy ông văn thân Phan Đình Phùng, Cao Thắng gặp thì...

Đội Tuần: - Thì sao, hả?

Hai lính: - Thì chết ạ.

Đội Tuần: - Mày bảo ai chết, hả thằng ngu?

Lính 1: - Dạ, cái thằng gặp... Dạ con chết ạ.

Đội Tuần: - Liệu giữ cài mồm cái miệng. Biết không (Khua khoắng tay) - ngài Khâm sai Đại thần Nguyễn Thân ra đây mang theo bốn ông Tán lý, bốn ông Đề đốc, tám ông Lãnh binh. Chuyến này thì to chuyện. Bọn Văn thân cứ nằm ngủ trên rừng nhé.

Hai lính: - Dạ! to chuyện.

Đội Tuần: (Ra vẻ hiểu biết) - Dân đen, dân trắng đều phải làm hai sổ khai nam phụ lão ấu. Khai thật đúng, có gian dối là tiệt. Nay đi đâu phải có giấy thông hành... Nếu không có thì tiệt.

Nguyễn Thân tay chổng gậy hèo và Đinh Quảng tay phe phẩy quạt giấy, vào

Đội Tuần: - Lạy hai quan ạ.

Nguyễn Thân: - Ta bảo gọi mấy ả hát ca trù tối vô đồn, làm chua?

Đội Tuần: - Dạ! Bẩm xong rồi ạ. Thất, bát ả trẻ đẹp như hoa ạ.

Nguyễn Thân: (Gõ đầu gậy lên đầu Đội Tuần) - Được lắm.

Cha con người hát sẫm và cô Tám, cải trang thành người ăn mày, vào

Người hát sẫm: (vừa kéo nhị vừa hát - xẩm chợ) Trăng thời rằm, trăng thời rằm là cái mảnh trăng kia sáng tỏ như trăng rằm. Làm sao đây rửa được hờn căm cho đời...[5]

Đội Tuần: (Với lính 1 và 2) - Kiểm tra giấy thông hành mấy đứa kia. Không có gò cổ dẫn vào đồn.

Hai lính đi về phía cha con người hát xẩm và cô Tám

Lính 1: - Trình giấy! Không có, tiệt, nghe không?

Lính 2: (Nói nhỏ) - Biết hai ông quan to kia không? Đi! Muốn sống ra khỏi nơi này, tránh xa cửa đồn. Đi! Đi! Đại thần Nguyễn Thân mang theo bốn ông Tán lý, bốn ông Đề đốc, tám ông Lãnh binh. To chuyện rồi.

Cô Tám: - Con cắn rơm, cắn cỏ xin chú lính cho vô ngồi đây để xem những bộ xương cốt từ ngoài bờ sông bay vô... bay vô. Ấy đang bay vô, lù lù... Thấy không?

(Lính 1 trợn mắt, săm soi nhìn cô Tám)

Lính 2: - Ả nói chi lạ.

Cô Tám: - Có phải bị phơi nắng, phơi mưa... Nhiều.

Lính 1. - Đi! Đi! Nếu không ta ném xuống sông La bây giờ. Ném xuống Sông La... Ném xuống sông La...

Người hát xẩm: (Hát) - “Thương nhớ trông mong chàng trở ra về

Thiếp tôi thương nhớ trông mong

Nhớ thương anh ơi quằn quặn mà để trong lòng...”[6]

Bên ngoài vang lên tiếng kêu khóc, tiếng roi vút, tiếng quát tháo, tiếng chân người, ồn ào

Đội Tuần: - Có chuyện to rồi (Hấp tấp chạy)

Nguyễn Thân: (Đi về phía cổng đồn; với lính 1): - Ra bảo chúng nó dẫn bọn bị bắt vô trong sân đồn, không đánh đấm ngoài đàng, ngoài sá.

Lính 1: (Vừa đi vừa nói) - Bắt hết. Dẫn vô đồn. Dẫn vô đồn.

Tiếng vọng: (nối nhau, xa dần, nhỏ dần) - Bắt hết... Bắt hết...

Từng người, từng nhóm người bị đẩy nhào vào trước cổng đồn, đổ dúi dụi lên nhau. Những con người gầy gò, ăn mặt rách rưới, nét mặt sợ sệt có, căm giận có.

Đội tuần: - Còn chuyển gạo thóc, mắm muối lên rừng cho thằng nghịch đảng Phan Đình Phùng nữa không, hả?

Mấy tên lính áp giải quất roi lên đám người theo nhịp lời nói của Đội Tuần: Vút! Vút! Vút!...

Còn dám giúp giặc chống lại nước Bảo hộ Pháp nữa không? Hả? (Vút! Vút! Vút!...

Những người dân:

- Chúng tôi không giúp giặc.

- Không.

- Thà chết. Đây không hãi!

- Chết là cùng.

- Giết cũng xong. Không hãi!

Ba, bốn tên lính xông vào đám người. Từ đây trở đi không còn nghe rõ tiếng nói. Âm thanh hổn độn.

Nguyễn Thân: (Tức tối) - Kẻ mô phục dịch tên họ Phan ấy thì ta giết. Giết! Giết! Dẫn chúng nó vô đồn!

Nhóm người  bị bọn lính lôi sềnh sệch qua cổng đồn.

Đinh Quảng phơ phất cái quạt, quạt cho Nguyễn Thân.

Hai cha con người hát xẩm và Cô Tám ra xa đám đông

Người hát sẫm: (vừa kéo nhị vừa hát - xẩm chợ) Trăng thời rằm, trăng thời rằm là cái mảnh trăng kia sáng tỏ như trăng rằm. Làm sao đây rửa được hờn căm cho đời...([7])

Nguyễn Thân: - Dân Xứ Quảng nổi tiếng ngang ngạnh nhưng còn thua bọn người xứ này. Tại ở phép nước không nghiêm.

Đinh Quảng: Dạ. Và thiếu những vị quan cứng rắn nữa ạ.

Nguyễn Thân: - Tuần Phủ thấy thế à?

Đinh Quảng: - Bẩm. Tiếng tăm của ngài vang ra đất này trước khi ngài đặt chân tới. Ngài xông pha, dẹp loạn từ Phú Yên sang Quảng Nam, Quảng Ngãi, hai lần được Nhà nước bảo hộ tặng Bắc đẩu bội tinh. Người Nam phò Đại Pháp mấy ai được như Ngài.

Nguyễn Thân quay lại, vỗ tay lên đầu Đinh Quảng, cười.

Đinh Quảng cúi người, phe phẩy quạt.

Đinh Quảng: - Có Ngài về đây, tình thế khác trước.

Bọn văn thân bị ngài đẩy vô rừng, cùng đường, bí nước rồi. (Cười nịnh)

Nguyễn Thân: (Bực bội) Cười cái đếch gì, hử? Ta có quân sỹ, khí giới thừa mà không qua nổi sông Ngàn Trươi, núi Quạt. Mẹ kiếp.

Đinh Quảng: - Dạ! Ẩy là bởi... (Im lặng, lấm lét nhìn)

Nguyễn Thân: - Bởi... bởi cái con khỉ?

Đinh Quảng: - Bẩm! Cái lòng quy phục, cái sức dân giúp ngầm cho họ Phan còn nhiều ạ.

Nguyễn Thân: (Như một mình) - Muốn trừ văn thân phải chặt hết vây cánh của hắn.

Đinh Quảng: - Ngài thật anh minh.

Nguyễn Thân: - Ngài Bắc kỳ kinh lược sứ Hoàng Cao Khải đã gởi thư cho hắn, thằng nghịch đảng họ Phan ấy, nói điều hơn lẽ thiệt, khuyên hắn ra hàng, hắn không nghe. Chém anh hắn, hắn trơ trơ. Đào mồ mả bố mẹ hắn lên, hắn lặng thinh. (Trầm ngâm một lúc) Chẹn hết đường tiếp tế, ông ta vẫn lòng son, gan sắt.

Đinh Quảng: - Nhưng rồi ra con cá trong chậu, con chim trong lồng thôi ngài ạ.

Nguyễn Thân nhìn Đinh Quảng, lắc đầu.

Nguyễn Thân: Ta đã mất bao mưu kế, mấy sức lực mà chưa kết thúc được... Lũ văn thân cứ còn. Còn trên rừng, còn dưới sông, còn trong làng, trong xóm. Giết! Giết! Giết cho tới khi Phan Đình Phùng thành cái cây không rễ, không cành.

Đội Tuần: - Cái cây không rễ, không cành.

Hai Lính: - Không rễ, không cành.

Nguyễn Thân: Câm miệng.

Đinh Quảng: - Mong Ngài bớt giận để số đông được nhờ.

Đội Tuần: - Số đông được nhờ ạ.

Im lặng. Chốc chốc vang lên tiếng người kêu thét.

Đinh Quảng: (Như sực nhớ) - Dạ! Bữa nào đó ngài có bảo tôi làm cho Ngài một áng thơ.

Nguyễn Thân: (Quay lại, trợn mất) - Cái gì? Thơ?

Đinh Quảng: (Khúm núm) - Dạ, một bài thơ để khắc vào bia đá dựng trên núi Tùng Lĩnh, bên bờ sông La, xứ La Sơn này.

Nguyễn Thân (ủê oải) - Ta nhớ ra rồi. Đọc đi.

Đinh Quảng: Dạ, thần thảo thế này;

“Vệ giang chi anh.

Thạch trụ chi linh.

Thế xuất tuấn kiệt

Vị xã tắc sinh

Tây bình hữu tử.

Đẩu nam đại danh

Hồng Lam thiên cổ

Bi kệ tranh tranh”[8]

Nguyễn Thân: (Ngẫm nghĩ rồi dúi mũi gậy vào bụng Đinh Quảng) - Tuyệt. Tuyệt. Ông thế mà giỏi. Chữ mô ra chữ ấy. Hồng Lam thiên cổ. Tên tuổi, công trạng của Nguyễn Thân ta lưu mãi trên đất La Sơn này. Hay! Hay!... Cho khắc ngay vào bia đá. Khắc vào bia đá! Khắc vào bia đá!

Chuyển cảnh

Tám

Tháng 12 năm 1895.

Trong rừng Vũ Quang. Một cái lán lợp tranh săng. Một cái giường gỗ. Cụ Phan nửa nằm nửa ngồi trên giường. Quanh là các tướng Đổng Nghinh, Ngô Quảng, Lãnh Khai. Con trai Phan Đình Phùng: Phan Bá Ngọc, Phan Đình Cam và Bà Lan, vợ Phan Đình Phùng. Lính hầu đi ra, đi vào)

Phan Đình Phùng: (gượng dậy): Các tướng đâu?

Các tướng: - Có các thần.

Phan Đình Phùng: - Lại gần đây. Tôi và các đồng cừu khởi nghĩa đã mười năm nay, đến giờ công việc chắc hỏng muôn phần mà tôi đã lâm vô cảnh thập tử nhất sinh, không chi cứu vãn được nữa rồi. cổ nhân đã nói không sai” Mưu việc ở người, nên việc ở trời”, việc trời sắp đặt lỡ rồi, sức người không đổi xoay được nữa...

Lính Thị vệ (Từ ngoài vào) - Dạ, bẩm có Cô Tấm xin vào hầu.

Lãnh Khai - Cho cô ấy vào.

Cô Tám: (Sà về phía Phan Đình Phùng) - Sao đến nông nỗi ni hở trời cao, đất dày?

Phan Đình Phùng: - Cô về chậm quá. Ông Cao Thắng đi rồi.

Cô Tám: (Nghẹn ngào) - Dạ... Người ấy đi rồi!

Người ấy đi không với tui một lời. Hu! Hu!...

Phan Đình Phùng: Đừng khóc. Đừng khóc. Ông ấy đã đánh thành, xông trận, chém tướng, giật cờ sống không hổ mình với tiền nhân với non sông, xã tắc. Giờ thì ông ấy không xung trận nữa. Ông ấy chọn cái chết của bậc đại trung rồi. Còn ta.. Trời không dành vận.

Cô Tám: - Ông Cao Thắng đã bỏ dở dang việc lớn, giừ muôn họ, muôn dân đang nhìn vào Chủ soái. Chủ soái đứng dậy đi.

Phan Đình Phùng: - Ta biết... Giá mà ta đứng dậy được, ta cầm quân nghinh địch...

Phan Bá Ngọc: - Việc quân có các tướng, việc nhà có con và em Cam, cha tĩnh dưỡng thuốc men, cơm cháo cho đầy đủ. Việc mưu toan sự nghiệp phú cường đang cần cha khoẻ dậy.

Phan Bá Cam: (Đứng thẳng dậy, rút gươm) - Cha ơi! Con hết sức chịu rồi. Hãy cho con vài trăm lính, con sẽ dọc sông Ngàn Sâu về Linh Cảm sống chết với tên Nguyễn Thân.

Phan Đình Phùng: - Cái thanh thế, cái nguyên khí của mình lúc này mà kéo quân xuống đánh đồn Linh Cảm chỉ làm khổ nghĩa binh, làm khổ sinh dân mà thôi.

Nay tạm lui, tạm yên, sẽ liệu thế đánh sau.

Lãnh Khai: Chủ soái thường dạy chúng tôi là vì khí tiết, vì danh nghĩa, vì phận sự làm tôi đối với vua, làm dân đối với nước, dù ốm đau bệnh tật, gươm đao kề cổ cũng không được một lúc gục ngã.

Phan Đình Phùng: (Gượng cười) - Phải! Không được gục ngã.

Cô Tám: (Nắm tay cụ Phan) - Cụ ơi, tui ở Trung Lễ, sang Đông Thái... (Đắn đo, ấp úng) Mô cũng thấy cái chết lơ lửng trên đầu dân. Người sống và cả người chết đều không yên. Đến hào lý cũng có kẻ bị tử hình hoặc tru lục.

Phan Đình Phùng: - Ta biết... Ta biết Nguyễn Thân và đồng bọn đã triệt hết đường tiếp tế lương thực của ta... Nó đánh đập dân... Nó hành hạ nắm xương cha mẹ ta. Chao ôi!...

Đổ gục xuống

Giấc mơ

Nghĩa địa bên bờ sông Lam.

Những ngôi mộ lô xô.

Sông cuộn sóng.

Mặt trời tròn vo, đỏ như máu. Và sương khói.

Phan Đình Thông (Anh Phan Đình Phùng) và Phan Đình Phùng.

Phan Đình Phùng: - Anh, Anh ở đâu?

Phan Đình Thông: (Trên một ngôi mộ, trong sương khói)- Anh ở đây.  ...

Phan Đinh Phùng: - Anh ơi! Một năm rồi...

Phan Đình Thông: - Một năm?Mấy cõi? Có biết ta bị bắt không?

Phan Đình Phùng: - Dạ, biết.

Phan Đình Thông: - Có biết ta bị địch giết không?

Phan Đình Phùng: - Dạ, biết... biết...

Phan Đình Thông: - Có biết vì sao lại ra vậy không?

Phan Đình Phùng: - Dạ! Vì em! Em đã không nghe lời thư của Lê Kinh Hạp và Hoàng Cao Khải khuyên bỏ căn cứ, bỏ anh em chư tướng, nghĩa binh ra hàng giặc.

Phan Đình Thông: Ha...ha... - Giỏi! Giỏi!

Phan Đình Phùng: - Anh có giận em không?

Phan Đình Thông: - Lâm sự ấy, anh cũng làm như em. Ôi thằng em của anh; Giỏi! Em xứng danh kẻ sỹ Xứ Nghệ, xứng với dòng dõi họ Phan Đông Thái.

Phan Đình Phùng: - Nhưng cũng vì em mà mồ yên của bố mẹ chúng nó đào xới lên. Vậy em là kẻ bất hiếu phải không anh?

Phan Đình Thông: - Cái hiếu của kẻ sỹ thời loạn theo vận nước. Em đã đặt dân, nước lên trên; há không phải là đại hiếu sao. Bố mẹ cũng bảo với anh vậy mà. Bố sắp về. Đấy... Bố về kia kìa.

Phan Đình Phùng: Anh...

(Chạy về phía Phan Đình Thông. Phan Đình Thông biến mất. Phan Đình Phùng chới với, ngã).

Phan Đình Tuyển (Cha Phan Đ. Phùng) và Phan Đình Phùng.

Phan Đình Tuyển: (Hiện trong sương khói mờ ảo)

- Ông Ngự sử, ông Đình Nguyên, ông Chủ soái... Ha! ha! Con trai của ta giỏi lắm, không bỏ công ta dạy dỗ? Dậy đi con. Cha về với con đây.

Phan Đình Phùng: (Chắp tay lạy) - Cha ơi! Con cắn rơm, cắn cỏ lạy cha, tha cho con tội bất hiếu.

Phan Đình Tuyển: - Thời buổi hổn loạn, lòng người trần trắng đen mà ra nông nỗi.

Phan Đình Phùng: - Vì con mà anh Thông bị giặc giết, vì con mà cha và mẹ không yên nghỉ được phải lang thang trong sương khói giữa mưa nắng...

Phan Đình Tuyển: - Con trai! Con có ngôi mộ to phải giữ là đất nước, có người anh đang nguy vong phải giữ là mấy triệu đồng bào. Con hành xử như vừa rồi là người đại hiếu rồi. Nào! Dậy đi! Chúng nó đang vây ép con và anh em nghĩa binh...

Dậy! Dậy đi!

(Phan Đình Tuyển đưa tay về phía con trai. Phan Đình Phùng đưa tay lên, hụt hẫng...

Mặt trời tắt. Sương khói mờ mịt.)

Phan Đình Phùng: (Gượng ngồi.) - Anh em đâu?

Nhiều người: - Dạ! Có chúng thần.

Phan Đình Phùng: - Lâu nay bọn địch bày ra mấy chuyện để ép ta ra hàng, anh em đã rõ? Anh em lo cho ta lắm phải không?

Nhiều người: - Dạ! Phải.

Phan Đình Phùng: - Từ khi khởi binh ta đã chủ tâm là bỏ cả việc gia đình quê quán ra ngoài. Ta mà sửa sang phần mộ riêng thì đất nước kia ai giữ. Ta lo cứu ông anh của mình thì bao anh em trong nước ai cứu? Vì khí tiết, vì danh nghĩa, vì phận sự làm dân với nước, còn đôi chút sức lực ta cũng đem ra hết.

Đổng Nghinh: Xin Tướng quân đừng bi thiết quá.

Ngô Quảng: - Ôi, mấy thằng bán nước bợ đít giặc Pháp, viết thư này ra lời nọ, Chủ soái chấp làm chi.

Phan Đình Phùng: (Vẩy tay yếu ớt): Phải! Nào, mọi người lại gần ta. Gần hơn nữa. Ta mệt lắm rồi. (Lặng, thở gấp).-Ta với các ông một lòng với nhau đã mười năm, cùng xông trận, cùng chịu đau, chịu khổ. Nay nghĩ xa các chư tướng, xa anh em binh sỹ đã vì ta mà liên luỵ, lòng ta như dao cắt, ruột gan như muối xát, nguồn cơn bao kể xiết. Ta chết, các ông cho giải tán binh sỹ về quê cày cấy, giữ giường mối chờ thời cơ lại phất cờ, hạ hịch, dấy binh. Đừng để ngọn lửa trung nghĩa tắt.

Đổng Nghinh: - Dạ thưa!Tướng sỹ một lòng theo cụ đã mười năm, nay quyết theo cụ cho đến chết.

Lãnh Khai: - Xin Tướng quân tĩnh dưỡng. Việc chưa thành, tướng quân phải ở lại với chúng thần, ở lại với muôn dân.

Phan Đình Phùng: - Ta đang ở với mọi người đây,.. Ta đang chờ tin đầu nguồn Ngàn Trươi. Cái kế sa nang úng thuỷ của Hàn Tín đánh quân Sở ngày xưa. Bọn chúng Sắp càn lên chưa? Các chư tướng kiểm tra lại kè, đập, pháo hiệu, quân mai phục. Và củi khô để đốt lửa đầu nguồn Ngàn Sâu. Trận này phải thắng.

Các tướng: - Dạ! Tất cả đã chu tất. Tướng quân yên tâm tĩnh dưỡng.

(Lãnh Khai, Ngô Quảng và một số quân sỹ ra. Lão Thủ từ đi đi lại lại, miệng rầm rầm trong khói hươmg nghi ngút).

Phan Đình Phùng: (Với cô Tám) - Ông Cao Thắng cô đơn, tôi đã định nói với cô đến giúp ông ấy. Chưa kịp nói thì ông ấy đã bỏ tôi, bỏ cô, bỏ tất cả ra đi... Tôi trù liệu cử cô sang Xiêm mua súng đạn. Nhưng giờ thì thôi. Không kịp nữa rồi. Triều đình lại bắt tay với Xiêm rồi. số trời sao mà oan nghiệt. (Thở hổn hển).

Cô Tám: (một mình): - Vận nước éo le; lòng trời run rủi; mệnh anh hùng ngắn ngủi... Phận nữ nhi như tui chưa làm nên trò trống chi thì đã đứt gánh..

Phan Đình Phùng: - Xưa ta nói với Thánh thượng là sự nghiệp Cần Vương trụ vào thiên thời, địa lợi, nhân hoà; nay xem ra đã thấy không có cái trụ thiên thời...

Lão Thủ từ: (Quay về phía giường Phan Đình Phùng, một tay cầm đĩa, một tay cầm hai đồng tiền) - Dương Minh Táo Kim Tư Thiện Thiếu Âm Quân Hoả Tại Tuyên. Ất là Âm, ngũ hành hợp kim, năm nay Kim vận bất cập. Hoả khắc Kim... Ôi ông Đình nguyên Tiến sỹ... Ôi ông nho tướng, văn sâu, sử rộng, gốc vua tôi, cha con theo ngũ đạo thường, cứ đại hiếu, đại trung ... Mà đau vì hiếu, xót vì trung... Kim vận bất cập... Hoả hoả, kim kim... Tam thập... Tam thập... (những lời sau nghe không rõ)

Phan Đình Phùng: (Ngửa mặt) - Ngày 13 ư? Đàm Thiên, Thuyết Địa, Luận Nhân học từ nhỏ, biết lục khí, ngũ vận, tứ thời mà không biết được vận mình...Tối qua ta bốc được quẻ Càn; quẻ nói...

Bà Lan: (Với Phan Đình Phùng) - Xin ông nghỉ ngơi. (Với ông Lão) - Cụ ơi, cụ cầu thánh thần bốn phương, tám hướng cầu Mẹ Thượng Ngàn ngụ trong rú Vụ Quang cho chồng tui qua cơn vận hạn (Với Phan Đình Phùng) - Ông ơi, ông tĩnh dưỡng, thuốc men cho bình phục để tui được theo hầu ông mãi. Ông đừng bỏ tui, bỏ các con đi một mình.

Phan Đình Phùng: (Nắm tay vợ) - Bà tha lỗi cho tôi. Sinh ra thời loạn lạc, tôi bôn ba lo đền nợ nước, lúc nơi này, lúc chỗ kia, chẳng ngó ngàng, chăm lo được chút gì cho bà và các con. Mọi việc gia đình, họ tộc, xóm làng, một thân bà lo liệu. Chao ôi, làm chồng như tôi, làm cha như tôi có lẽ lý gì để nói với vợ con. Vậy là việc nhà tôi làm không nên, việc nước tôi lo không trọn. Tôi có tội với vua, với nước, có lỗi với nhà. (Với Phan Bá Ngọc) - Con... Con Con chép cho cha.

Phan Bá Ngọc: (Soạn giấy bút) - Con chờ cha.

Phan Bá Ngọc viết. Trong góc sân khấu ông lão Thủ từ Miếu Trầm Lâm quỳ, mặt hướng về phía rìmg, tay chắp trước ngực

Giọng Phan Đình Phùng:

“Nhung trường vâng mệnh đã mười đông

Vũ lược còn chưa lập được công.

Dân đói kêu trời xao xác nhạn.

Quân gian chật đất rộn ràng ong

Chín lần xa giá non sông cách

Bốn bể nhân dân nước lửa nồng

Trách nhiệm càng cao càng nặng gánh

Tướng môn riêng thẹn mặt anh hùng”.[9]

Tiếng pháo nổ. Rồi tiếng nước gầm réo. Tiếng súng. Tiếng kêu la. Tiếng hò reo của quân sỹ. Ánh lửa đỏ rực loang loáng.

Ngô Quảng: - Bẩm tướng quân. Ta thắng to. Bọn Pháp và lính tập trôi ngoi ngóp, ngoi ngóp, chết không biết bao nhiêu mà kể. Kế sa nang úng thuỷ... Ta thắng to, thưa tướng quân.

Phan Đình Phùng: (Mặt rạng ngời) - Hỡi tướng sỹ! Cho đốt lửa trên sông Ngàn Sâu để muôn dân thấy. Nào! Đỡ ta dậy. Dìu ta ra rừng.

 (Đổng Nghinh, Lãnh Khai, Ngô Quảng, Cô Tám và bà Quỳ đỡ Phan Đình Phùng ra phía trước sân khấu. Phan Đình Phùng đứng thẳng người dõi nhìn về phía xa,

Phan Đình Phùng: (Cảm khái) - Non sông tươi đẹp thế kia.

Phan Đình Phùng khuỵu xuống.

Phía sau rất nhiều ngọn lửa bốc cao, cháy sáng giữa núi rừng chập chúng. Sương mờ dâng lên.

Đoàn các cô gái, mặc đồ trắng, những ngọn lửa nến trên tay, mờ ảo hiện lên.

Họ đi, xa dần, xa dần trên nền lời điếu:

Lời điếu: “Trời đất xưa nay thế mãi. Đá dựng ngược nước chảy xuôi, đó vẫn non sông phường tuấn kiệt. Lam hồng nổi cơn bão tuyết, bách tòng úa rụng luống xông pha.

Đau đớn thay đê vỡ sóng vồ, giữa dòng trụ đứng; sao dời vật đổi, ngoảnh đầu người cũ phải bôn chôn. Đương lúc này gió thổi nhạn lìa căm giận lòng trời cay nghiệt; riêng cảm Tùng, Mai khí tiết, tinh thần một thác rạng trăng sao,,[10]

Màn.

MỤC LỤC

                                                                                       Trang

-Lừi nói đầu……………………………………………… 3

-La Sơn Nguyễn Biểu …………………………………..   4

-Lửa Ngàn Trươi………………………………………………36

NHỮNG NGƯỜI NGHĨ KHÍ

Tập kịch

Tác giả: ĐỨC BAN 

NHÀ XUẤT BẢN SÂN KHẤU

51- Trần Hưng Đạ, Hoàn Kiếm, Hà Nội

                     Chịu trách nhiệm xuất bản và nội dung:

                                ThS PHẠM THỊ NGỌC ANH

                                                 Biên tập:

                ……………………………………………………

                        Trình bày bìa: ĐỨC TÙNG SƠN

                        Trình bày ruột và sửa bản in: QUỲNH NGA

  

In tại: Công ty Cổ phận in Hà Tĩnh

Địa chỉ: 173 Hà Huy Tập; T.p Hà Tĩnh

Số lượng in: 300 cuốn; khuôn khổ 12 x 20 Số xác nhận ĐKKHXB     số:…………………………Quyết định XB số ………………………….

Của Nhà xuất bản Sân khấu ngày     tháng    năm 2021

Mã số sách Quốc tế

In xong và nộp lưu chiểu:……………………………………..

(*) Theo “Thơ văn Việt Nam” của Nghiêm Toàn và Hoàng Xuân Hãn.(**) Theo “Thơ văn Việt Nam” của Nghiêm Toàn và Hoàng Xuân Hãn.(*) Sách đã dẫn(*) Thơ Trần Tử Ngang (Tương Như dịch ; thơ Đường T.1)(**) Sách đã dẫn.[1] Tam cung: Bà mẹ và hai bà vợ Vua Tự Đức;[2] Cảm tác - Thơ Phan Đình Phùng - Lê Vũ Hoàng dịch: Kinh thành ngoái lại mà trông/ Xót vua, mất nước mắt rưng lệ nhòa/Quyền gian một mực xúi hòa/ Để người trung nghĩa biết làm sao/ Thay mặt mới, khác vương hầu/ Non sông đổi chủ còn đâu của mình/ Con em dòng dõi vắng tanh/ Xa xa những ngóng non Bình không an.(*) Vè “Dấy nghĩa Cần Vương” - Dân gian(**) Vè “Dấy nghĩa Cần Vương” - Dân gian(***) Vè “Dấy nghĩa Cần Vương” - Dân gian[3] Câu đối khóc ông Cao Thắng của Phan Đình Phùng. Câu 1: Có chí không thành, anh hùng đã khuất/ Chưa thắng đã chết, ý trời ra sao. Câu 2: Công muốn lập nên, gõ mái nặng thề trừ giặc nước/ Việc khôn tính trước, lên yên nay thấy vắng người này. (rút trong Phan Đình Phùng - cuộc đời và sự nghiệp: sách đd)[4] Văn tế Cao Thắng của Phan Đình Phùng[5] Xẩm - Thanh Lưu chỉnh ý - Rút trong “Âm nhạc dân gian Xứ Nghệ”; Chi hội Âm nhạc Dân gian Nghệ An, xuất bản năm 2000.[6] Sách đã dẫn[7] Sách đã dẫn[8] Văn bia của Tuần phủ Đinh Nho Quang viết cho Khâm mạng Đại thần Nguyễn Thân. Đại ý nói khí thiêng sông núi Vệ Giang, Thạch Trụ (Quê Nguyễn Thân) chung đúc ra bậc anh tài, cha truyền con nối, vì giang sơn xã tắc. Ngày trước cha đã anh hùng, giờ con cũng anh hùng lập nên công nghiệp to tát, ghi chép ở khoảng sông Lam, núi Hồng muôn thủa[9] Làm lúc sắp mất – Thơ Phan Đình Phùng; bản dịch của Trần Huy Liệu.[10] Câu đối của Văn thân Nghệ Tĩnh điếu Đình nguyên Tiến sỹ Phan Đình Phùng – lãnh tụ phong trào Cần Vương; bản dịch của Đào Trinh Nhất.

LA SƠN NGUYỄN BIỂU

NHÂN VẬT

(Theo thứ tự xuất hiện)

Nguyễn Biểu  50 tuổi, Điện tiền thị ngự sử

 triều Hậu Trần (1409 - 1413)

Người hầu

Nguyễn Thị Hộ      Vợ Nguyễn Biểu

Đặng Dung    Đồng bình chương sự

Lính 1

Lính 2

Quang văn

Trùng Quang        Vua Hậu Trần, cháu Giản Định Đế

Trần Chưởng   Cháu vua Giản Định Đế

Quan đình thần

Nguyễn Trực  13 tuổi (con Nguyễn Biểu)

Lính 3

Lính 4

Trương Phụ   Tướng giặc Minh

Phan Liêu      Hàng Thần

Người chèo đò

(Một số lính và cung nữ khác)

I

Mùa thu năm Mậu Tý (1408). Một ngày tháng chín. Trong nhà Nguyễn Biểu. Giữa là bàn thờ họ Nguyễn, có hoành phi, câu đối sơn son thếp vàng. Dưới bàn thờ, giữa nhà kê một cái án thư. Trên án thư có sách, đèn dầu lạc. Vài cái ghế xếp chung quanh.

Nguyễn Biểu mặc áo dài đen, đầu chít khăn, ngồi cạnh án thư.

Bên ngoài gió thổi ào ào, thính thoảng một tia chớp lóe sáng, trông rõ những cái song cửa số phía bên trái và những tàu lá chuối ướt nước sáng láng.

Nguyễn Biểu: (Đứng dậy, tay cầm bút lông, đi đi lại lại trong phòng).

Đêm qua mưa gió rụng.

Một trời sâu mịt mù.

Thức cùng ngọn đèn rạng.

Mới hay lạnh hơi thu.

Lòng đau khô giọt lệ...

Người hầu: (Từ ngoài vào) - Ông ơi ! Có chuyện nguy lắm ạ.

Nguyễn Biểu: - Chuyện nguy chẳng hiếm; bình tĩnh nói ta nghe nào.

Người hầu: - Nước sông La dâng lâu mỗi to, ngoài bãi nhiều chỗ đã ngập. Khắp chốn bong bóng xoáy sùng sục. Thôi thì là rắn, là rết, là kiến, là nhái kéo đàn, kéo lũ vào làng.

Nguyễn Biểu: - Ấy là chuyện sinh tồn. Chúng đi tìm chỗ sống đó thôi.

Người hầu: - Ông nói về ai vậy ạ?

Nguyễn Biểu: (Cười) - về rắn, về kiến, về nhái ấy...

Người hầu: - Nước lũ thì làm sao ạ ?

Nguyễn Biểu: (Xòe tay, bấm đốt) - Giờ ngọ trời sẽ ngớt mưa, hửng nắng và nước sẽ rút. Con đừng lo.

Người hầu: - Ôi, trời ạ ! Con mà được như ông thì...

Nguyễn Biểu: - Thì làm sao ?

Nguời hầu: - Con không biết, vì con không được tài giỏi, đức độ như ông. Cơ mà... (Nhìn Nguyễn Biểu vẻ e dè) Con sẽ dọc ngang một chuyến.

Nguyễn Biểu: - Giỏi ! Giỏi lắm ! Cứ tu dưỡng cái tâm, học và hành cái lẽ lý của người xưa, người nay rồi con sẽ như ta.

Người hầu: (Lắc đầu) - Con tăm tối mặt mũi còn đọc, học nỗi gì. Nào lợn, nào gà, nào củi, nào đuốc, nào cuốc, nào cào... Rồi cấy, gặt, nhặt cỏ, bỏ phân, cân khoai, cào hến, chuyển củi, gánh than, đưa hàng lên chợ... Dạ... Con xin ông, con lỡ cái mồm cứ dông dài hoa kèn, hoa súng...

Nguyễn Biểu: (Đặt tay lên vai người hầu) - Không sao ! Ngươi cứ nói tiếp đi, ta đang học điều ngươi nói đây. Ngươi học ta, ta học ngươi. Kẻ sĩ là người biết làm học trò thiên hạ.

Người hầu: - Bà cũng nói với con vậy. (Nhìn Nguyễn Biểu) Ông ơi ! Bà là người đàn bà có một không hai ở xứ La Sơn này phải không ạ ?

Nguyễn Biểu: - Ngươi thấy thế ư ?

Người hầu: - Dạ. Bà thương cậu Trực nhé, yêu ông nhé, thu vén việc nhà đâu vào đó nhé, đối xử với người hầu như bạn như bè nhé.

Nguyễn Biểu: - Gì nữa ?

Người hầu: - Đẹp nhé.

Nguyễn Biểu: - Gì nữa ?

Người hầu: - Tất tần tật ạ (nhìn Nguyễn Biểu, rụt rè) - Ông ơi nghe bà bảo... Mà ông đừng nói với bà là con nói với ông thì con mới dám nói ạ.

Nguyễn Biểu: - Nói đi. Ông hứa chỉ hai chúng ta nghe, biết.

Người hầu: - Nghe bà bảo... ông sắp sửa đi xa phải không ạ ?

Nguyễn Biểu: (Một mình) - Có chuyện ấy ư ?

Ý định của mình nàng biết rồi ư ? Chao ơi, người đời bảo, vợ chồng đã trao xương gửi thịt cho nhau củng chưa đủ được (với người hầu) - Bà có rỗi việc không? Nếu bà rỗi việc, ngươi mời bà ra cho ông gặp nói chuyện.

Người hầu: - Bà đang làm thuốc cho cậu Trực.

Cái khí trời, hơi đất làm cậu khó ở mấy hôm nay. Hồi sáng, con và bà sang chùa Yên Quốc xin thuốc của nhà sư, nhưng lính không cho lên đò. Con xắn tay áo, uỳnh ngực ra, suýt nữa thì con đã đi theo bố, mẹ con rồi. Đã thế, lúc về vào chợ Thượng để mua thức gì ngon bổ cho cậu thì chợ trống huơ, trống hoác chỉ có chó hoạng và ruồi đen nhâm nhi, nhâm nhi. Ông ơi, trên, dưới, phải, trái, gái trai, già trẻ ai ai cũng tóp tép cái dạ dày...

Nguyễn Biểu: (Ngắt lời người hầu) - Ta biết (một mình) Thiên hạ loạn lạc, người không ốm đau cũng khó sống, huống hồ người bệnh tật.

(Nguyễn Biểu ngồi vào bàn, một tay chống trán, khuôn mật đăm chiêu. Người hầu bó ra. Gió thổi mạnh, hai, ba tờ giấy trên án thư bay trong khoảng không. Nguyễn Biểu đứng dậy, bắt giấy, rồi đến trước bàn thờ).

Nguyễn Biểu: - Nhà Hậu Trần mới dựng hai năm, chưa thấy làm được gì cho thái bình, thịnh trị. Cái sự được, sự hỏng của một triều cứ nhìn vào dân trăm họ để biết. Cái tài, cái đức của bậc đế vương đảm đương vận hội, thi hành đạo cổ, mưu hoạch việc lớn cao, thấp thế nào cứ nhìn vào dân trăm họ để biết. Ta vừa làm một chuyến vi hành khắp xứ La Sơn ra tận Thanh Hoa, vào Thuận Hóa, gặp nhà nhà đói khổ, thấy muôn sự nhiễu nhương. Lại nghe triều đình không yên. Tướng tài giữ đạo trung thì bị giết, kẻ gian lại được trọng dụng, ban tước vị, bổng lộc. (Nguyễn Thị Hộ vào, đứng từ xa lắng nghe) - Xót xa thay (lặng im xúc động, một lúc) - Ta tài hèn, sức mọn, không mưu hành nên sự gì, ngẫm xấụ hổ cho bao năm đọc chế sách, mấy lần thi cử đỗ đạt.

Nguyễn Thị Hộ: - Thấy ông dày vò một mình, u uất tâm sự mà lòng tôi buồn khổ không yên (đi đến bên Nguyễn Biểu)

Nguyễn Biểu: (Đỡ bàn tay vợ trong tay mình) - Tôi làm chồng nàng có với nhau hai mật con rồi mà chưa một lần cùng nàng thảnh thơi ngắm cảnh làm thơ. Âu cũng bởi cái thời... (ngắc ngứ) - Tôi có lỗi với nàng... Mai kia nước yên, dân bình, vợ chồng ta vui thú vậy (cười chua chát).

Nguyễn Thị Hộ: (Gần như hốt hoảng) - Không ! Tôi đâu dám trách ông. Cái tình ông đối với vợ con tôi đâu phải ở chỗ làm thơ, ngắm cảnh, đâu phải chồng trước vợ sau vào nội, ra ngoại. Tôi đã khóc khi tiễn ông đi lập công với nước, rồi lại khóc khi ông đau buồn bởi chí nguyện không thành trở về nhà.

Nguyễn Biểu: (Nhìn xa xôi) - Nàng ơi ! Tôi những thèm cùng nàng lên Ngàn Hống ngắm cảnh, làm thơ, nhìn mây bay, nghe suối chảy, ngửa bàn tay hứng tiếng chim rơi... Nhưng nàng hiểu cho bụng dạ tôi. Tôi xin nàng... (cúi xuống).

Nguyễn Thị Hộ: (Vội đỡ tay chồng) - Đừng !

Ông làm thế, tôi còn mặt mũi nào nhìn thiên hạ. Nếu không vì bất tài, tôi đã như nàng Quỳnh Hương vợ chàng Đặng Dung cưỡi ngựa, vung gươm.

Nguyễn Biểu: (Trầm ngâm) - Năm điều của kẻ sĩ: trí, nhân, nghĩa, dũng, đức cứ canh cánh trong lòng tôi. Tôi chẳng tham vọng đứng trong hàng quân tử, mà cốt để khỏi xấu mặt với bạn bè, để góp chút sức mọn cho giang sơn, xã tắc.

Nguyễn Thị Hộ: - Tôi biết chí ông, hiểu tâm sự của ông.

Nguyễn Biểu: - Tướng quân Đặng Dung nàng vừa nhấc là một trang hảo hán đã mấy năm ngang dọc chiến trận.

Nguyễn Thị Hộ: - Nghe tin chàng đã về chùa Yên Quốc.

Nguyễn Biểu: - Thế ư ? (xúc động) - Đêm qua tôi nằm mơ thấy sao mọc trên Thiên Nhẫn, biết điềm báo.

(Người hầu từ ngoài vào)

Người hầu: - Bẩm ! Có người xưng danh Đặng Dung xin gặp ông ạ.

Nguyễn Biểu: - Ta vừa nhắc xong (ngứa mặt).

Đấy là ý trời (với vợ) Nàng ra mời tướng quân Đặng Dung vào cho tôi.

(Nguyễn Thị Hộ và người hầu ra. Nguyễn Biểu sửa sang trang phục. Lát sau Đặng Dung mặc áo giáp, lưng đeo kiếm vào).

Đặng Dung: - Kính chào Nguyễn tiên sinh.

Nguyễn Biểu: - Bấy lâu cách biệt, tại hạ hằng mong nhớ tướng quân.

Nguyễn Thị Hộ: - Vợ chồng tôi mới nhắc tướng quân xong. Đúng là ý trời, lòng người. Đêm qua cháu Trực lên cơn sốt không ngủ, cháu hỏi: Chàng Đặng Dung múa kiếm, đọc sách giờ ở đâu ?

Đặng Dung: - Thế chị trả lời với cháu sao ?

Nguyễn Thị Hộ: - Tôi bảo, chàng Đặng Dung là thiên hạ đệ nhất kiếm thì ở khắp thiên hạ (ngâm) - Thù nước chưa xong đầu đã bạc. Mấy độ mài gươm bóng nguyệt tà.

Nguyễn Biểu: - Lâu nay tôi không được tiếp kiến bạn bè, lòng đau đáu một nỗi niềm ngóng trông cơ hội. Nếu hôm nay tướng quân không tới thì tôi củng ra đi. (Với vợ) - Bà xem trong nhà có gì quý soạn ra đãi khách. Rượu nếp cái, hến Ngàn Sâu, còn cái món dưa cải chua xào tép nữa.

Nguyễn Thị Hộ: - Hai ông vào chuyện, tôi xin phép.

(Nguyễn Thị Hộ cúi lễ rồi đi ra. Nguyễn Biểu và Đặng Dung nhìn nhau, nét mặt xúc động. Bên ngoài gió lại thổi ào ào. Nắng dọi vào chỗ hai người đứng).

Nguyễn Biểu: (Kéo ghế) - Mời ông ngồi. Ông sống thế nào ?

Đặng Dung: - Từ khi phụ thân tôi và bác Nguyễn bị vua Giản Định Đế giết, tôi và Quỳnh Hương bỏ về quê, đêm xuống sông Nghèn đánh cá, ngày lên Ngàn Hống đi săn. Tưởng lánh xa thời cuộc mà không được, bụng dạ cứ không yên. Cứ thấy cái tội lỗi của mình đối với giang sơn xã tắc ngày mỗi to, cứ thấy cái đạo nghĩa của mình đối với dân ngày mỗi mỏng. Thế rồi; lại lên ngựa. Ba năm gom binh, xông trận nhưng thấy tình thế cứ mịt mù. Người hiền sĩ thì ngày mỗi ly tán.

Nguyễn Biểu: - Dùng trung hậu đối đãi với sĩ phu, lấy thành tín để cai trị dân chúng; cái đường lối ngay thẳng ấy nay còn đâu !

Đặng Dung: - Tôi, Nguyễn Súy, Nguyễn Hiếu và Ngân Hà cùng tâm sự như tiên sinh. Nhưng chẳng lẽ ngồi nhìn giặc Minh dày xéo đất đai, sông núi. Xưa cha tôi dạy: kẻ sĩ mài gươm dưới trăng. Mặt trời không mọc cũng tuốt gươm mà đi.

Nguyễn Biểu: - Triều đình đầy bọn xu nịnh, bất tài, tham lam. Lính ít, sĩ phu ly tán. Nghĩ mà xót xa.

Đặng Dung: - Tôi tìm đến ông là mong có sự gặp nhau trong việc tìm đường cứu cơ nghiệp Hậu Trần.

(Nguyễn Biểu đăm chiêu đi đi lại lại. Đặng Dung trầm ngâm).

Nguyễn Biểu: - Quan hệ ông và Nhập nội thị trung Trần Quý Khoáng thế nào ?

Đặng Dung: - Ông ấy nhiều mối bất hòa với vua Giản Định Đế và bọn Nguyên Tôn, Trần Hỷ. Còn với phụ thân tôi thì ông ấy một lòng nể trọng.

Nguyễn Biểu: - Xem ra nhà Trần chỉ còn mỗi ông Trần Quý Khoáng là để cho chúng ta phò giúp. Tôi xin trình ý tôi với tướng quân để tướng quân ngẫm xem sao.

Đặng Dung: - Tôi xin nghe.

Nguyễn Biểu: - Chúng ta bàn đưa ông Trần Quý Khoáng về phía nam sông La và xây dựng một căn cứ kháng chiến trên đất Bà Hồ La Sơn. Xưa, Uông Lập Tín có sách lược "duyên giang" cứ men theo sông lập đồn đủ tác dụng chiến, thủ. Vùng Bà Hồ La Sơn vừa có duyên giang thêm son thạch hiểm yếu, lại là đất sinh chí sĩ trượng phu bao đời nay.

Đặng Dung: (Chộp lấy hai tay Nguyễn Biểụ lắc lắc) - Trời ơi ! Khá khen trí lự của tiên sinh. Dựa vào địa lý để trung hưng cơ nghiệp xưa nay bao người tài giỏi đã làm. Nhưng ý định lập vua mới thay vua cũ bất tài không được dân tin nửa thì chỉ có bậc hào kiệt, sĩ phu mới nghĩ ra (im bặt, băn khoăn). Nhưng... Trần Chưởng thì sao đây ? Ông ta cũng cháu vua Giản Định Đế ngang bậc Trần Quý Khoáng. Ta củng phải tính đến chuyện ấy vì máu tham tước vị, bổng lộc có từ nô tì đến bậc quốc thích.

Nguyễn Biểu: - Trần Chưởng là người không dùng không được, mà dùng thì biết là không dùng được. Sống với loại người ấy ta luôn phải đề phòng, thân ta sẽ mỏi mệt hơn, tóc ta sẽ bạc nhanh hơn. Nhưng đất Nam ta còn bao nhiêu người xử sĩ.

Đặng Dung: - Thiên hạ thì to lớn, dân chúng thì đông đúc, kẻ sĩ thì nhiều, có minh chủ nữa thì chấn hưng nhà Trần, diệt giặc Minh, việc ắt thành.

Nguyễn Biểu: - Phải lắm.

Đặng Dung: (Vui vẻ) - Xưa kia, một lần phụ thân tôi bảo: Có sự gặp nhau làm nên nghiệp lớn là ứng với hôm nay chăng.

Nguyễn Biểu: (Cười) - Kẻ sĩ mài gươm dưới trăng chờ mặt trời mọc, mặt trời không mọc phải kéo mặt trời lên tuốt gươm mà đi.

(Nguyễn Thị Hộ xách cái giỗ tre vào, theo sau là người hầu bưng cái khay gỗ đựng một be rượu, ba cái chén nhỏ)

Nguyễn Thị Hộ:(Đặt cái giỏ tre lên bàn) - Xin dâng hai ông chén rượu và thức nhắm là quý vật sông La, núi Thiên Nhẫn (giọng run run) - Hai ông dùng cho tôi vui. Tôi sẽ làm cái phận sự nhỏ mọn của người vợ đối với chồng và với khách quý.

Nguyễn Biểu: - Phận sự nàng đâu phải là nhỏ mọn. Nàng biết rồi đấy, tôi sẽ phải đi. Phận sự của nàng chỉ có thể lấy núi, lấy sông mà sánh.

Nguyễn Thị Hộ: - Để tôi đưa con ra tiễn ông.

(Nguyễn Thị Hộ nhìn Nguyễn Biểu, mắt rân rân nước, rồi ra. Nguyễn Biểu và Đặng Dung im lặng nhìn theo cho đến khi Nguyễn Thị Hộ dắt tay Nguyễn Trực vào. Nguyễn Biểu ôm Nguyễn Trực vào lòng).

Nguyễn Biểu: (Với vợ) - Tôi đi không hẹn ngày về, nhưng không phải là không về. Nàng đừng khóc... Đừng khóc...

Nguyễn Thị Hộ: (Gượng cười) - Tôi có khóc đâu. Cầu mong ông đi chân cứng đá mềm. Xin hai ông nâng rượu.

(Ba người chúc rượu. Một tia chớp lóe sáng cả căn phòng. Người hầu xách tay nải ra trao cho Nguyễn Biểu, sụt sịt khóc).

Nguyễn Biểu: - Ngươi hãy chăm sóc bà giùm ta.

Người hầu: - Dạ.

Nguyễn Biểu: (Trao con cho vợ) - Tôi đi.

Đặng Dung: - Xin chị (cúi chào)

(Nguyễn Biểu và Đặng Dung đi, Nguyễn Thị Hộ dắt con theo một quãng rồi đứng lại).

Nguyễn Thị Hộ: - Chàng đi dặm thẳm non xa

Gió mưa trắng mắt biết là về đâu

Trông theo lòng nhớ, dạ sầu.

Trên ngàn chớp lóe, sông đầu sấm ran.

II

Ngày 17 tháng 3 năm Kỷ Sửu (1409).

Một tòa đăng quan uy nghi

Phía xa là núi trập trùng. Dưới chân núi là sông La. Hai bên bờ sông thấy lô xô đồn ái.

Lính 1: - Từ bữa về Bà Hồ lại nay ta thấy dễ chịu hơn.

Lính 2: - Vì không phải đánh đấm, lại được nghỉ ngơi, không phải thấy cái chết lửng lơ, lơ lửng trên đầu chứ gì.

Lính 1: Ấy là một nhẽ. Nhẽ nửa, làm lính ông Đặng Dung, ông Nguyễn Biểu, ông Nguyễn Cảnh Dị bọn ta có vẻ là con người hơn. Chứ hồi ở Thanh Hoa, cầm giáo theo ông Nguyên Tôn phù vua Giản Định Đế thì...

Lính 1: - Suỵt ! Mày không tiếc cái đầu à ? Đến như tướng Đặng Tất, tướng Nguyễn Cảnh Dị vào ra binh lửa, một lòng vì triều Trần mà còn được uống thuốc độc, được hứng gươm nữa là...

Lính 2: - Sắp khác rồi.

Lính 1: - Là sao ?

Lính 2: - Họ sắp rước một người ở chùa Yên Quốc về đây làm vua thay Giản Định Đế vì nghe đâu sau khi giết tướng Đặng Tất và tướng Nguyễn Cảnh Chân đêm nào nhà vua cũng mộng mị, ngọc thể bất an.

Lính 1: - Mày biết nhiều chuyện nhỉ. Càng biết nhiều chuyện càng dễ chết con ạ.

Lính 2: - Nào ! Còn mỗi việc treo cái này lên chỗ này (chỉ tay lên phía trên ngai rồng).

Lính 1: - Phải xong trước giờ Ngọ đấy.

(Hai lính căng một tấm vải có dòng chữ "Thuận thiên kế nghiệp Trùng Quang hoàng đế" treo lên phía trên ngai rồng)

Tiếng bên ngoài: - Thiết triều !

Lính 1 và lính 2 nhìn tấm biển một lần nữa rồi nép vào hai góc. Sáu lính cờ vào chia thành hai hàng dọc. Trần Quý Khoáng đội mũ bình thiên, mặc áo long cồn đi vào, theo sau có Nguyễn Biểu, Đặng Dung, Trần Chưởng, Nguyễn Súy và một số quan văn, quan võ. Trần Quý Khoáng ngồi vào ngai. Các quan đứng chầu hai hàng dọc).

Quan văn: (Giọng sang sảng)

Thừa thiên hưng vận Trần triều hậu duệ Trùng Quang hoàng đế chiếu rằng:

Nhà Trần ta từ khi vua Thái Tôn lên ngôi năm Ất Dậu đến nay đã trải qua 183 năm. Mấy năm qua, họ Hồ thoán đoạt rồi nhà Minh cướp nước, hào kiệt, dân chúng nhiều phen nổi dậy mưu giành lại sơn hà. Vua Giản Định Đế chí không đủ lớn, tài chẳng đủ cao; chỉ nhờ vào Quốc công Đặng Tất và chư vị anh hùng ra sức mới khôi phục được một nửa cơ đồ. Thế mà vừa đây lại làm một việc bất nhân, bất nghĩa là giết hai bậc đại công thần Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân khiến cho quân tan, dân chán. Giặc Minh thừa thế cướp một phần đất đai phủ Ninh - Thanh.

Trẫm nay nghĩ mình là dòng đích, cháu của Thượng hoàng Nghệ Tông, phải đứng lên thu gom trăm họ ba quân vào một mối, trước là để đánh thắng giặc Minh, khôi phục giang sơn, sau là để rửa lỗi lầm của người trong họ.

Vậy nên tuân mệnh trời, thể lòng người lên ngôi cửu ngũ lập hiệu Trùng Quang, thống lĩnh quân dân một lòng đánh giặc. Từ nay định ước: Vua tôi cùng vinh nhục, trên dưới cùng sướng khổ. Ai có công được ghi ơn, ban thưởng, trọng dụng. Kẻ có tội nhỏ thì tha thứ cho được lập công chuộc tội. Chỉ xử hình thật nặng những kẻ ăn ở hai lòng đầu hàng quân giặc, hoặc cướp của giết người.

Ngày Dần tháng Thìn, Tượng Long Hổ phong vân, trẫm xuống chiếu xa gần đều rõ.

Khâm thử.

(Ba hồi chiêng vang lên, vua Trùng Quang rời ngai dâng hương ngửa mặt làm lễ tế trời rồi vái vọng về hướng Đông Bắc. Trùng Quang ngồi vào ngai. Mọi người quỳ lạy).

Mọi người:   - Hoàng thượng vạn tuế.

- Nam Việt vạn tuế.

Trùng Quang: - Các khanh nghe đây. Ta cầm binh đao bao năm dưới trướng vua Giản Định Đế đánh giặc Minh mong mỏi chấn hưng cơ nghiệp nhà Trần, nhưng chẳng làm nên trò trống gì, phải về ở ẩn trong chùa Yên Quốc. Nay các khanh tin ta, rước ta về đây tôn ta làm vua. Ta mong các khanh hãy một lòng cùng ta mưu việc lớn.

Mọi người: - Hoàng thượng vạn tuế.

Trùng Quang: - Lời xưa dạy: Làm vua phải biết cân nhắc kẻ giỏi giúp mình. Lại dạy, mỗi ngưòi dân là một cột trụ của nước nhà, vua cũng như dân là một cột trụ vậy. Vì thế ta làm lễ sắc phong cho một số khanh đã từng có công với nhà Trần.

(Lính cờ phất cờ đi chéo trước ngai rồng rồi xếp thành hai hàng dọc, không ngừng phất cờ cho đến hết các sắc phong)

Nội quan: (Đọc to) - Sắc cho Nguyễn Biểu vâng mệnh giữ chức Điện tiền thị ngự sử.

Nguyễn Biểu: (Sụp lạy) - Thần: Nguyễn Biểu xin phụng mệnh.

Nội quan: Sắc cho Đặng Dung vâng mệnh giữ chức Đồng bình chương sự.

Đặng Dung: (Sụp lạy) - Đa tạ bệ hạ. Thần xin phụng mệnh.

Nội quan: Sắc cho Trần Chưởng vâng mệnh giữ chức Thái giám.

Trần Chưởng: (Một mình) - Ta thuộc dòng con cháu họ Trần mà đứng ở bậc chánh tứ phẩm ư (với vua Trùng Quang) - Bệ hạ quên danh phận của thần rồi sao? Quên là với vua Giản Định Đế thần và bệ hạ cùng hàng cháu sao ? Quên là trước khi có cách biệt vua, thần và bệ hạ cùng ra vào một ngõ ư ?

Nguyễn Biểu: - Tấu trình bệ hạ ! Chức vị cứ vào tâm đức tài năng mà giao. Xưa nay triều nào cũng thế.

Trần Chưởng: - La Sơn Nguyễn Biểu ! Hà cớ gì mà ngươi can gián ?

Nguyễn Biểu: - A !  Máu tham tước vị bổng lộc có trong tim, óc từ bậc quân tử đến kẻ tiểu nhân. Đặng tướng quân nói với ta cách đây mấy ngày đã nghiệm.

Trần Chuởng: (Với Nguyễn Biểu) - Danh vị của ta là danh vị nhà Hậu Trần. Việc chẻ phù, phong tước cho ta còn là việc đạo đối với tổ tiên. Ngươi không hiểu sao?

Nguyễn Biểu: - Hiểu ! Hiểu quá đi chứ ạ.

Trùng Quang: - Nghe bằng tai thì ngươi nói có lý. Nhưng Thái giám phải so tài năng của mình với người.

Trần Chuởng: - So ư ? Đặng Dung con trai Đặng Tất mà Đặng Tất bị triều Trần xử ? Bệ hạ còn nhớ chứ ? Còn Nguyễn Biểu đậu Thái học sinh thời nhà Hồ là cái gì ?

Đặng Dung: (Tay sờ đốc gươm, giận dữ) - Ngươi ăn nói như một kẻ phàm phu tục tử.

Trùng Quang: - Cứ để Thái giám nói tiếp.

Nguyễn Biểu:(Rũ tay áo) - Tấu trình bệ hạ ! Có tôi trung, phải có vua sáng. Có vua sáng phải có tôi trung. Xưa nay vua sáng, tôi trung thì nước trị. Nếu không có cảnh nước trị thì bọn tự xưng là trung kia (nhìn Trần Chưởng) không phải là trung vậy. Và, vua sáng ấy (nhìn Trùng Quang) không phải là sáng vậy.

Trần Chưởng: - Khép ngươi vào tội khi quân, không oan.

Trùng Quang: - Hãy nghe...

Nguyễn Biểu: - Thần từ cái gốc là đạo để nói lời ngay thẳng. Nếu bệ hạ coi đó là khi quân, loạn ngôn thì xin bệ hạ rút sắc phong của thần và khép tội thần. Bởi, trước sau chi thần cũng nói lời ngay thẳng.

Đặng Dung: - Thưa bệ hạ! Thần biết Điện tiền thị ngự sử Nguyễn Biểu mười năm nay, nhân và trí chẳng kém mấy ai ở đất La Sơn này.

Trần Chưởng: (Nôn nóng) - Có ai hỏi tướng quân mà nói hả ?

Trùng Quang: (Chí Nguyễn Biểu) - Ngươi nói tiếp đi.

Nguyễn Biểu: - Vua Giản Định Đế cầm quân sĩ chăm lo muôn dân đã hơn hai năm mà chưa thành đạt nổi việc gì. Ngài không biết các bậc hiền tài là khí dụng của nhà nước, không thân với bậc quân tử, nên trách nhiệm nơi chín bệ suy cho cùng cũng chỉ một mình ngài và những kẻ nịnh thần kém cỏi gánh vác.

Trần Chuởng: (Sờ đốc gươm) - Không được nhờn phép nước, không được lạm ngôn vua. La Sơn Nguyễn Biểu có còn là trung thần ?

Đặng Dung: (Sờ đốc gươm) - Xưa cha ta bị chém, triều Trần mất bao nhiêu tướng giỏi chỉ vì những lời nói xúc xiểm của kẻ tiểu nhân.

Trần Chuởng: - Ai tiểu nhân ? Hả ? Nguơi nói đi ! Ai tiểu nhân ? Ai quân tử ? Họ Đặng đối với nhà Trần thế nào, chú ta đã xử rổi đó.

Trùng Quang: (Chém tay vào không khí) - Thôi ! Thôi ! Các khanh đừng quất lưỡi vào nhau nữa.

(Mọi người im bặt. Lính cờ rủ cờ đứng lặng).

Trùng Quang: - Giặc Minh đang tới gần. Vua Giản Định Đế cát cứ ngoài Ngự Thiên. Sao các khanh không lo bàn việc ấy ? Các khanh có kế sách gì ?

Nguyễn Biểu: - Bẩm bệ hạ ! Theo thần hợp tung là quốc sách.

Trần Chưởng: - Xưa nay có nước nào có hai vua ? Nhà Trần có hai ông vua! Dân nhìn hai bệ rồng đặt kề cạnh nhau biết xưng hô làm sao ? Thần thấy thật là không ổn.

Trùng Quang: - Ngươi bảo việc gì không ổn.

Trần Chưởng: - Bẩm, việc hai vua ấy. Việc hợp tung hai vua lại ấy.

(Trùng Quang bối rối nhìn hết người này sang người khác)

Nguyễn Biểu: (Với Trần Chưởng) - Tháng trước, tôi và ông và tướng quân Đặng Dung ngồi thuyền vượt nước lũ để ra Thanh Hoa lo chuyện lập căn cứ Bà Hổ nói về chuyện lập vua mới, ông là người nhiệt thành nhất cơ mà. (Với Trùng Quang) - Xin bệ hạ bình tâm. Vua Giản Định Đế đã già, thể tạng và tâm sự mệt mỏi. Nhưng vẫn là người trọng danh. Bệ hạ tôn vua Giản Định Đế làm Thái thượng hoàng là hợp đạo trời, hợp lòng dân, tránh được thiên hạ chê trách.

Trùng Quang: - Ôi ! Điện tiền thị ngự sử ! Ngươi đúng là bậc hiền sĩ.

(Lính thị vệ từ ngoài vào, sụp lạy)

Lính thị vệ: - Bẩm tâu bệ hạ ! Có người đưa thư từ Ngự Thiên về.

Trùng Quang: - Chắc chú ta đã biết chuyện. Cho vào.

(Quan đình thần vào)

Quan đình thần: - Nhập nội thị trung Trần Quý Khoáng nhận thư.

Trần Chuởng: (Rút gươm) - Láo ! Ngươi không biết người trước mặt ngươi là vua Trần Trùng Quang à ?

Quan đình thần: - Đó là Nhập nội thị trung Trần Quý Khoáng.

(Trần Chưởng đâm chết quan đình thần. Mọi người ngơ ngác).

Trùng Quang: - Sao ngươi nóng nảy làm vậy.

Nguyễn Biểu: (Ngửa mặt lên trời) - Nhà Trần không khéo hỏng nghiệp lớn vì một mũi gươm. (Với Trần Chưởng) - Ông cốt phá kế hợp tung phải không ?

Trùng Quang: (Tức giận chỉ tay vào mặt Trần Chưởng) - Ngươi muốn ta và vua Giản Định Đế bị đoạn tuyệt, muốn thiên hạ chửi vào mật ta ư ?

Trần Chuởng: - Oan cho thần. Chỉ vì thần không chịu nổi khi có kẻ khi quân. Mong bệ hạ hiểu mà tha tội. (Tự kéo xác quan đình thần ra).

Trùng Quang: - Đọc đi ! Đọc thư chú ta đi.

Đặng Dung: (Mở thư) - Thần xin phụng mệnh (đọc)

An Nam Giản Định Đế gửi cho Nhập nội thị trung Trần Quý Khoáng biết: Đã lâu, Trẫm và khanh không có dịp hội kiến để bàn kế sách chấn hưng sự nghiệp nhà Trần. Nay nghe tin khanh cùng một số tướng sĩ lập cứ Bà Hồ, đối mặt với lũy tướng Minh Trương Phụ bên kia sông La. Lại nghe, khanh dùng Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị làm bậc hiền sĩ. Khanh đừng quên là cha hai người ấy bị Trẫm chém đầu mùa xuân năm Đinh Hợi. Trẫm nhắc: Dùng nhầm người là căn do của loạn.

Vậy đặc sai đình thần đem thư tới mà không đưa chỉ dụ để khanh tiện bề xử liệu. Thứ nữa, khanh hãy thu xếp về ngay Ngự Thiên để cùng Trẫm cáng đáng việc nhà Trần chớ để chậm chạp, làm ta bực mình.

Hưng Khánh năm thứ 2 tháng 5 ngày 24

(Im lặng. Các quan đưa mắt nhìn nhau. Trần Chưởng nhếch mép cười một mình)

Trùng Quang: - Các khanh tính sao ?

Trần Chưởng: - Chi bằng khởi binh.

Nguyễn Biểu: - Quan Thái giám giết quan đình thần đã là quá lắm. Giờ còn bày mưu khởi binh! Khá khen mẹo mực của ông. Xưa Trương Nghi người nước Ngụy theo Trần Vũ Vương xui nước Yên đánh nước Triệu để nước Tần mạnh. Nay ông cũng tính chuyện đánh nhau để ông trở thành người cầm cân nẩy mực trong nội tộc họ Trần phải không ?

Trần Chưởng: - Ông ăn nói hồ đồ.

Trùng Quang: - Ngươi im đi.

(Trần Chưởng rủ tay áo, tra gươm vào vỏ đi ra)

Trùng Quang: - Các khanh nghe đây! Giờ Dần ngày mai khởi binh tiến đánh giặc Minh. Còn Điện tiền thị ngự sử Nguyễn Biểu đem 200 quân cùng với lễ vật trọng ra Ngự Thiên yết kiến vua Giản Định Đế, nói ý định của Trẫm và đưa hết cái tài ra mà tự hành việc. Trẫm tin ngươi. Riêng quan Thái giám Trần Chưởng ở lại Bà Hồ cùng 100 lính lo việc tu bổ lũy phía sông La.

(Lính thị vệ vào, hốt hoảng)

Lính thị vệ: - Bẩm tâu bệ hạ ! Quan Thái giám giết bốn lính giữ cổng thành lên ngựa chạy về hướng Bắc rồi ạ.

Trùng Quang: (Đổ người xuống ghế) - Trời ơi!

Vua hiểu được tôi khó lắm thay. Hãy đuổi theo Trần Chưởng bắt cho ta.

Nguyễn Biểu: - Bẩm ! Không được đâu ạ.

Trần Chưởng là người cưỡi ngựa, bắn cung không ai bằng.

Trùng Quang: - Chưa hành sự, đã nhiễu sự.

Mọi nguời: - Xin bệ hạ hãy bình tâm.

III

Đêm sáng lờ nhờ, đồi nối đồi lô nhô; xa hơn chút nữa là rừng. Một con đường ngoằn ngoèo chạy giữa những lùm cây. Gió xào xạc. Thảng hoặc có tiếng chó sói hú xa xa.

Nguyễn Thị Hộ dắt tay Nguyễn Trực, theo sau là người hầu gồng gánh. Họ chạy, ngã. Lại lồm cồm bò dậy chạy tiếp. Mệt, họ ngồi túm tụm dưới một gốc cây cao, lá lưa thưa không rõ cây gì. Nghe rõ tiếng thở hổn hển.

Nguyễn Thị Hộ: (Với con) - Con thế nào ? Mệt không ? Nào, để mẹ bóp chân cho. Tội nghiệp, mới hơn chục tuổi đã phải chạy giặc.

Nguyễn Trực: (Co duỗi chân) - Con khỏe mạnh mà, chỉ nhức chân, đau ngực, mỏi cổ thôi.

Nguyễn Thị Hộ:(Với người hầu) – Ngươi thấy thế nào? Ta vẫn đi đúng đường đấy chứ. Thiên địa ơi, sao mà cứ trập trùng đồi với đồi thế.

Người hầu: - Con thì con chẳng có rõ hướng với phương nào nữa.

Nguyễn Thị Hộ: - Mây đen lại ùn ùn lên đầy trời, không thấy sao để định hướng.

Người hầu: - May không trăng sao, trời tối mà ta ra khỏi được Bà Hồ. Con đã nói, ta có trời phù giúp. Giá mà ông ở đây nữa thì con chẳng sợ.

Nguyễn Thị Hộ: (Một mình) - Hôm ông ra đi, ông dặn tôi đừng khóc, đừng khóc. Tôi đã không khóc hàng năm nay, cho dù trăm nỗi khổ cực oan ức. Ông còn dặn tôi chăm lo nhà cửa con cái... Ông ơi, phận đàn bà sức vóc như lá cỏ lau, tôi đã kém cỏi phải bỏ nhà mà chạy trốn. Phải bỏ bàn thờ tổ tiên, bỏ sách vở thánh hiền của ông lại mặc bọn giặc Minh định liệu. Tôi lạy ông trăm lạy (cúi lạy)

(Phía đầu con đường lóe lên một ánh lửa. Bóng hai người lính xuất hiện. Người hầu vội vàng xách nách Nguyễn Trực và kéo Nguyễn Thị Hộ vòng ra phía sau một bụi cây rậm).

Người hầu: - Lặng... Lặng im như đất như đá, như cây, như cỏ nghe chưa hở cậu, hở bà ?

Lính 3: - Cứ như họ độn thổ vậy.

Lính 4: - Này, tao nghe nói ông Nguyễn Biểu tinh thông lý số, có phép thuật nữa. Tao nghĩ, bà vợ ông ấy cũng giỏi giang không kém. Ấy ! Mày xem ! Bốn phía vắng tanh vắng ngắt, toàn những bóng đen lởn vởn, lởn vởn. Kia kìa !...

Lính 3: (Run rẩy, nép vào lính 4) - Hết đường rồi mày ạ. Bên kia là đất Hà Hoa của nhà Trần. Lớ ngớ bị họ tóm.

Lính 4: - Thì thế này này (làm động tác thắt cổ)

Lính 3: - Eo ôi ! Tao không muốn chết.

Lính 4: - Mày có nghe mấy người lính giữ cứ Bà Hồ, khi đại quân nhà Trần thua ngoài Thần Đầu kéo tuột vô Thuận Hóa, họ bị ông Phan Liêu và tướng Trương Phụ bắt đem treo cổ trước cửa chùa Yên Quốc không ?

Lính 3: - Không

Lính 4: - Đang đêm, nhà sư ra chẳng thấy họ đâu nữa. Thì ra họ bơi dọc sông Lam, đến cầu, họ trèo lên lố nhố, lố nhố...

Lính 3: - Thôi đừng kể nữa. Tìm kiếm xem. Bắt được họ, họ chết, không bắt được họ tao và mày chết.

Lính 4: - Chẳng để làm chi. Đến như ông Trần Chưởng cháu vua Giản Định Đế làm đến chức Thái giám nhà Trần, bỏ nhà Trần theo tướng Trương Phụ hôm trước còn bị nọc ra đánh nữa là phận tao với mày.

Lính 3: - Ờ ... bọn ta như con kiến, con nhái.

Lính 4: (Thân mật) - Mày còn ai ở nhà không ?

Lính 3: - Mẹ, vợ và hai đứa con. Thằng con đầu của tao giống cô ấy, còn cô ấy là gái Cửa Hội, da thịt cứ phây phây, cứ ngồn ngộn.

Lính 4: - Còn tao, không còn ai. Giờ tao có chết là chết rảnh rang, chẳng nhớ thương ai, chẳng ai thương nhớ tao. (Bùi ngùi. Hai lính ngồi sát vào nhau).

Lính 3: (Nhìn về phía bụi cây nơi Nguyễn Thị Hộ trốn) - Có tiếng động lạ lắm mày ạ.

Lính 4: (Đập đập cán giáo xuống đất) - Đây này ... Cái tiếng mày nghe thấy đấy. Thôi, giờ thì mày trốn đi. Để mặc tao. Tao sẽ nói với ông Phan Liêu, ông Trần Chưởng là mày bị quân nhà Trần bắt. Thế là không ma nào đi tìm mày.

Lính 3: - Trốn ? Hay ! (băn khoăn) nhưng có chỗ nào cho tao nương thân.

Lính 4 : (Cười) - Đất La Sơn mênh mông không có chỗ cho cái thân nhái, thân kiến của mày à ?

Lính 3: - Thế thì... Thôi, tao đi. Tao ơn mày. Mai mốt tan cơn binh biến, mày đừng quên tao nhé (sụt sịt, kéo lê mũi giáo đi ra)

Lính 4: (Quay về phía Nguyễn Thị Hộ) - Các người ra và chạy nhanh đi.

(Nguyễn Thị Hộ, Nguyễn Trực và người hầu từ phía sau lùm cây ra).

Nguyễn Thị Hộ: - Chú không bắt chúng tôi sao ?

Lính 4: - Tôi mà bắt các người, tôi đã bắt ở Bà Hồ lúc bà lội qua hói Đẻo bị tuột dép ấy.

Nguyễn Thị Hộ: - Ta mang ơn chú. Ơn này có ngày báo đáp.

Lính 4: - Bà đi đi cho.

Nguyễn Thị Hộ: (Móc túi lấy gói tiền đưa cho lính 4) - Gọi là chút lễ trả ơn cứu mạng.

Lính 4: - Ta cần tiền làm chi. Ôi ! Ta cần tiền làm chi ? (Ngửa mặt, lắc đầu. Rồi quắc mắt) - Đi ngay.

Nguyễn Thị Hộ: - Xin chú nhận của mẹ con tôi một lạy.

Lính 4: (Vội vàng) - Không dám. Tôi chịu ơn ông Nguyễn Biểu ngày lũ sông La, bà không biết đâu. Đi đi. Các ngươi hãy vượt nhanh khỏi cái dốc kia. Bên ấy có quân nhà Trần rồi đấy.

(Mấy người vội vàng đi. Họ lên đến đỉnh dốc thì ở dưới này lính 4 tự sát. Nghe tiếng động, họ quay lại, đến ngồi quanh xác người lính. Im lặng).

Tiếng hát hậu trường: Ru hời... ngọn cỏ thì xanh

Đất quê thì nhỏ, mỏng manh phận người

Cỏ xanh là cỏ, ơi hời...

Khóc chi để nỗi một trời mưa rơi.

Ru hời, ru hỡi, ru hời

Cỏ xanh, đất đỏ một trời đầy mưa.

(Những người chạy trốn chôn cất người lính. Công việc diễn ra câm lặng, dưới ánh trăng lờ nhờ và trong tiếng hát lúc xa lúc gần, lẫn tiếng gió rú rít đây đó)

Giữ trung, ta tự chết

Giữ nghĩa, ta tự chết

Ngàn thu, ta là đất

Phơi lưng dưới nắng trời

Cỏ xanh, cỏ xanh ơi

Cỏ xanh, cỏ xanh ơi

(Trời tối. Rồi sáng bừng lên một khoảnh khắc, đủ nhận ra những người chạy trốn đang xuống dốc bên kia).

IV

Hành tại ở Châu Hóa. Buổi chiều. Vua Trần Trùng Quang bồn chồn đi đi lại lại.

Trùng Quang: - Bốn năm gánh vác cơ nghiệp nhà Trần ta chưa lo nổi việc yên dân, nói chi đến thái bình thịnh trị (thở dài). Chỉ liên miên đánh giặc. Được, thua, thua được (gió thổi ào ào bên ngoài). Sau thất bại trận Thần Đầu ta rút về đây. Thực là kẻ bại. Ôi nhục nhã tủi hổ. Phải vì ta bất tài, chưa hiểu thấu lẽ tinh thô của sự vật, hay ta chưa đến được cội nguồn của đạo Thánh hiền. (Thở dài, lắc đầu). Thương những tướng sĩ theo ta đã thiệt mạng, những hiền sĩ vì ta mà bạc tóc.

(Nguyễn Biểu vào đứng lặng phía sau)

Trùng Quang: (Day dứt) - Thế là vì đâu ? Những kẻ mưu phản ta ta đã giết, những kẻ dối trên, lừa dưới ta đã đuổi. Nhưng người hiền, kẻ sĩ ta chưa đủ "nhân", đủ "trí" để họ đưa tay, ghé vai giúp ta. Sách dạy đạo trị nước không phải một người mà làm nên công được. Ngoài mấy hào kiệt ở cạnh ta từ hồi xây thành, đắp lũy ở La Sơn, ta còn ai ? Thái Thượng hoàng đã bị bắt ngoài Nho quan nay không biết sống chết ra sao. Hoàng Thái hậu thì xa ta mà gần cầm ca thi tửu. Cô đơn đang gặm ta, đang nuốt ta (đưa hai tay ôm đầu)

Nguyễn Biểu: - Xin bệ hạ bình tâm. Bậc đế vương coi cái thắng như nụ cười nơi miệng trẻ, coi cái bại như cái gai dưới bàn chân.

Trùng Quang: - Khanh đấy ư ? Khanh đến với ta đấy ư ?

Nguyễn Biểu: - Bẩm bệ hạ ! Bọn thần vẫn ở cạnh bệ hạ cả đấy thôi. Ông Đặng Dung đang dạy binh pháp cho quân, ông Nguyễn Cảnh Dị đang lập đồn ải phía Nam núi Ngự... Những người khác từng theo bệ hạ xông trận ở Nghệ An, Thanh Hoa vẫn giữ trọn đạo làm tôi. Dăm bảy tướng đến cả Trần Chưởng Thái giám, vài trăm quân bán đạo cho giặc Minh kể làm gì

Trùng Quang: - Khanh là người học sâu, biết rộng, khí khái hơn người, khanh nói cho ta biết, ta có còn xứng là minh quân của các khanh không ?

Nguyễn Biểu: - Nếu bệ hạ "trí", "nhân" đều mỏng thì sau thất bại trận Thầu Đầu trên đường rút về Thuận Hóa lúc qua sông La, thần đã bỏ bệ hạ về quê vui thú cùng vợ con chờ thời.

Trùng Quang: - Trẫm tin. Khanh nói tiếp đi.

Nguyễn Biểu: - Trong triều những kẻ theo Thái Thượng Hoàng từ Ngự Thiên vào chưa một lòng cùng bệ hạ...

Sự thể ở Thái Từ Cung đang như một bếp than âm ỉ cháy, gặp gió là sinh hỏa hoạn.

Trùng Quang: - Nên dùng kế sách gì ?

Nguyễn Biểu: - Theo thần, ta phải cầu hòa với giặc Minh để tướng công Đặng Dung và Nguyễn Súy hợp quân, củng cố lực lượng. Ngoài bình thì trong trị.

Trùng Quang: - Trương Phụ đang ở thế thắng, liệu bọn chúng có chịu không ?

Nguyễn Biểu: - Bọn Phụ chưa hiểu hết quân tình của ta và chúng còn ngại vùng đất này núi cao, sông rộng hiểm trở.

Trùng Quang: - Ôi, quan Ngự sử ! Khanh đã làm ta bình tâm hơn. Còn việc cử sứ thần gặp Trương Phụ thì tính sao ?

Nguyễn Biểu: - Thần đã thảo sẵn thư và dự liệu lễ vật. Thần sẽ dâng trình bệ hạ soi xét. Tùy cơ ứng biến, liệu thế cương, nhu, mọi lý tình là vì giang sơn xã tắc; ấy là việc của sứ giả mọi thời (ra).

Trùng Quang: (Một mình) - Hiền sĩ như Nguyễn Biểu được mấy người.

(Bên ngoài có tiếng người lao xao)

Tiếng bên ngoài: - Tôi tìm gặp chồng tôi.

- Chồng ngươi ư ?

- Chồng ta là Điện tiền thị ngự sử Nguyễn Biểu đất La Sơn.

- Ra bà là vợ ngài Nguyễn Biểu. Sao nom bà xơ xác ốm o vậy.

- Đi mà hỏi giặc Minh ấy. Thôi, hãy dẫn ta vào.

- Hình luật bảo, tự tiện vào Quang Triều cung chịu tội xử giảo.

- Các ngươi đừng dọa già này.

(Trùng Quang đi ra phía có tiếng ồn ào. Lát sau vào. Theo sau là Nguyễn Thị Hộ)

Nguyễn Thị Hộ : - Xin bệ hạ tha tội. Thần thiếp từ La Sơn vô quả không biết đây là Hành tại.

Trùng Quang: (Một mình) - Việc trị binh ta chưa dạy lễ, nghĩa được bao lăm. (Với Nguyễn Thị Hộ) - Ngươi đi muôn dặm gặp quan Ngự sử chắc có chuyện không hay ?

Nguyễn Thị Hộ: - Mấy năm cách biệt, vợ chồng không gặp nhau. Nay nghe chồng thiếp về đây để ổn binh, thiếp đưa con trai và để cả nhà sum vầy, dù trong một khắc.

Trùng Quang: - Việc lành, dữ cứ nói. Ngươi định giấu ta sao ?

Nguyễn Thị Hộ: - Dạ, thần thiếp đâu dám giấu, chỉ lo làm vướng tinh thần bệ hạ và làm chồng thiếp thêm nặng lòng. Nay, được bệ hạ soi xét thần thiếp xin thưa.

Trùng Quang: - Ngươi nói đi !

Nguyễn Thị Hộ: - Dạ thưa ! Giặc Minh đã xây xong lũy phía bắc sông Lam. Tuần trăng trước chúng kéo quân sang phá tan lũy Bà Hồ và vây nhà thần thiếp, dọa nếu chồng thần thiếp không ra hàng sẽ treo cổ cả nhà. Hôm kia tri huyện Trần Hình và tướng Trần Chưởng kéo quân sang. Một lính mật tin thần thiếp biết. Vì thế, mẹ con thần thiếp phải trốn khỏi La Sơn, nhờ lòng hiếu nghĩa của một người lính mà thoát được vào tới đây.

Trùng Quang: - Cái sự liên lụy của kẻ hào kiệt không tránh khỏi trong thời loạn. Mẹ con ngươi vào được đây là ta mừng. Có chuyện gì nữa nói sau. Phu nhân ra quán nghỉ...

Nguyễn Thị Hộ :(Sụp lạy) - Thần thiếp xin bệ hạ một đặc ân.

Trùng Quang : (Đỡ Nguyễn Thị Hộ) - Miễn lễ.

Phu nhân nói đi. Phu nhân xin đặc ân gì, ta không chối từ đâu.

Nguyễn Thị Hộ: - Thần thiếp biết, chồng thần thiếp sắp đi sứ. Xin bệ hạ đừng vì việc thần thiếp vào mà đổi thay ý chỉ.

Trùng Quang: - Phu nhân mới vô chân ướt chân ráo sao tường tỏ nội tình triều đình vậy ?

Nguyễn Thị Hộ : - Bẩm. Thần thiếp đoán biết qua nét mặt bao dung của bệ hạ đấy ạ.

Trùng Quang: - Khá khen cho sự tinh tường của phu nhân. Thôi phu nhân cứ ra, ta sẽ cho quan Ngự sử đến sau. (Nguyễn Thị Hộ ra. Trùng Quang một mình) - Cái việc cầu hòa đã đến lúc không thể trì hoãn. Nhưng gia sự đang vậy, Nguyễn Biểu có làm tròn phận sự. Mà ta không nỡ cử ông ta đi. Làm vua phải biết nóng, lạnh của cận thần. Ta đã biết cơ mà. Ôi, khó thay !

(Nguyễn Biểu vào, lắng nghe)

Nguyễn Biểu: - Xin bệ hạ bình tâm. Thần đã biết mọi chuyện. Xưa Vũ Vương vào đất Ân nêu tỏ quê hương của hiền sĩ Thuơng Dung, đắp mộ cho hào kiệt Tỷ Can, nhờ thế dân Ân theo Vũ Vương mà không mất một mũi tên. Tướng giặc Minh Trương Phụ làm ngược lại thì sao lấy được đất La Sơn. Việc vợ con thần thiếp vào đây lánh nạn núp bóng hồng phúc bệ hạ lại là chuyện hay.

Trùng Quang: - Quả nhân không lạnh lòng cử thần đi lúc này.

Nguyễn Biểu: - Nếu bệ hạ nghĩ vậy, há ra thần nêu gương xấu coi gia sự hơn quốc sự cho các quan trong triều sao. Với lại, thưa bệ hạ, nếu bệ hạ không cử thần đi, vợ con thần sẽ rời Thuận Hóa ngay hôm nay. Tính khí vợ thần, thần hiểu như hiểu lòng bàn tay vậy.

Trùng Quang: - Phải, vợ ngươi phẩm giá và khí khái hơn người. (Trầm ngâm một lúc) - Ngươi vẫn nhớ chuyện Hành khiển Nguyễn Nhật Tư và quan thẩm hình Lê Ngận đi cầu phong bị vua Minh giết chứ ?

Nguyễn Biểu: - Dạ, thần nhớ. Nếu có mệnh hệ gì, thì thần đã lập danh cho triều Hậu Trần mà lập danh là cái cao nhất của đức hạnh.

Trùng Quang: - Ôi ! Nói vậy là nói với bậc tri giả. Còn trước thần là một người đàn bà, là đứa con trẻ ruột rà.

Nguyễn Biểu: (Một mình) - Tôi vì bận việc nước mà quên vợ con, nhà cửa. Nàng sinh nở tôi cũng không về, không ngửi thấy mùi thơm vỏ bưởi, không nghe tiếng khóc của con. Rồi nàng ốm, tôi cũng chỉ có chút quà mọn sai lính mang về. Mọi việc đồng áng, ăn mặc của gia đình một thân gầy nàng đảm nhiệm. Chao ôi, làm chồng như tôi, làm cha như tôi có lẽ lý gì để nói với vợ, con. (Với Trùng Quang). Thưa bệ hạ ! Việc cầu hòa đã bức hách. Nếu chậm, giặc sẽ vượt sông La đánh vào Hà Hoa nay mai. Bệ hạ cho ý chỉ để thần phụng mệnh. Còn việc nhà, thần sẽ nhờ Đồng bình chương sự, vốn bạn bè từ thuở trẻ thu xếp. Đạo nước chỉ một, còn đạo nhà phải chỉnh theo thời loạn, thời bình. Xin bệ hạ xem kế sách của thần (dâng kế sách).

Trùng Quang: (Băn khoăn, day dứt. Bên ngoài gió thổi ào ào. Có tiếng sấm ì ầm xa xa. Một ánh chớp lóe qua cửa) - Trẫm y ý ngươi.

Nguyễn Biểu: - Đa tạ bệ hạ.

Trùng Quang: - Thôi, về nghỉ đi. Nói vói Nguyễn Thị Hộ ta có lời chào. (Nhìn lên trời) Trời động; chắc sắp có mưa lớn (nhìn Nguyễn Biểu) - Ta mong ngươi non xa, dặm thẳm bình yên.

(Im lặng hôi lâu)

Trùng Quang: - Người đâu, mang rượu. Ta chúc ngươi một chén quan hà.

(Lính bưng rượu ra. Trùng Quang và Nguyễn Biểu nâng chén. Trùng Quang không cầm được nước mắt, bất giác ngâm thơ).

“Mấy vần thơ cũ ngợi Hoàng hoa

Trịnh trọng này nhân đắng khúc ca

Chiếu phượng mười hàng tơ cặn kẽ

Vó câu nghìn dặm tuyết xông pha

Tang bồng đã bấn lòng khi trẻ

Khương quế thêm cay tính tuổi già

Việc nước một hai công ngõ vẹn.

Gác hiền danh tiếng cõi lân xa”(*)

Nguyễn Biểu: - (Xúc động vái tạ, rồi cảm khoái):

"Tiếng ngọc từ vâng trước bệ hoa

Ngóng tai đồng vọng thuở thi ca

Đường mây vó ký lần lần trải

Áo tuyết cờ mao thức thức pha

Há một cùng tên lồng trí trẻ

Bội mười vàng sắt đúc gan già

Hổ mình vả thiếu tài chuyên đối

Dịch lộ ba ngàn dám ngại xa(**)

(Lại chạm chén. Hai người nhìn vào mắt nhau như bè bạn)

Dinh Trương Phụ. Một ngày trời âm u, cuối tháng 7-1413 Trương Phụ nửa nằm nửa ngồi, cạnh là Phan Liêu. Một vài lính vệ.

Lính vệ: - Bẩm tướng công, ông Trần Chưởng xin yết kiến ạ.

Trương Phụ: - Cho vào.

(Trần Chưởng vào)

Trần Chưởng: - Ngu thần Trần Chưởng xin yết kiến tướng công.

Trương Phụ: - Ngươi là kẻ biết nhìn xa, trông rộng, chọn mạnh để phù, biết yếu để xa, đáng được nhận một lời khen của ta.

Trần Chưởng: - Đội ơn tướng công.

Trương Phụ: - Việc bắt giữ vợ con Nguyễn Biểu xong rồi phải không ?

Trần Chưởng: - Dạ, thần đến để xin chịu tội.

Trương Phụ: (Đứng bật dậy) - Vô mưu hãm tài. Một mụ đàn bà và một đứa trẻ con mà để nó giẫm lên mũi chạy thoát. Còn dùng ngươi làm gì ?

Trần Chưởng: - Xin tướng công tha tội chết. (Quỳ sụp)

Phan Liêu: - Bẩm ! Tướng công xử vậy, còn ai dám bỏ nhà Trần theo chúng ta.

Trương Phụ: - Nể lời Phan Liêu, ta tha cho ngươi. Ngươi trở về lũy và giết hết những kẻ không làm tròn cái việc cóc nhái ấy.

Trần Chưởng: - Tạ ơn tướng công.

Trương Phụ: (Với Phan Liêu) - Lúc nãy ngươi nói cái gì, nói tiếp ta nghe.

Phan Liêu: - Dạ, theo ý ngu thần thì, sau trận Thần Đầu, nhà Trần bám áo nhau chạy một mạch vào Châu Hóa, tướng công nên nhân thế thắng bước vài bước nữa là thu phục hết cõi.

(Lính 3 từ ngoài vào)

Lính 3: - Bẩm tâu ! Có sứ thần nhà Trần từ Thuận Hóa ra tên là Nguyễn Biểu Điện tiền thị ngự sử ạ.

Trương Phụ: - Cho vào.

(Nguyễn Biểu bận phấm phục đại phu từ ngoài vào, thần thái ung dung)

Trương Phụ: - Tên man di kia ! Quỳ xuống.

Nguyễn Biểu: (Sắc mặt vẫn bình thản) - Trung Hoa là một nước có lễ, nghĩa sao ngươi mới được thấy mặt sứ thần đã trương gân cổ lên quát nạt vậy?

Trương Phụ: - Vua, tôi mi thua ta liểng xiểng. Vợ con ngươi đang đêm bồng bế nhau chạy theo Trùng Quang. Mi còn thế chi nữa mà nói chuyện với ta, hả ?

Nguyễn Biểu: - Tướng giỏi không dùng mẹo vặt, tâm lớn không đánh đàn bà trẻ con. Mà thôi cái chuyện đàn bà, trẻ con. Còn cái thắng, cái thua trong cuộc chiến như chuyện mưa, nắng của trời vậy. Biết đâu ngày mai nhà ngươi lại liểng xiểng thua ta.

Trương Phụ: - A ! Ha ! Ngươi cũng thuộc loại biết nói ngông.

Nguyễn Biểu: (Chậm rãi, rành rọt) – Ngươi có nhớ Nguyên Thế Tổ kiêu hùng khắp đông, tây mà đến Đại Việt cũng phải nhường.

Phan Liêu: - Chuyện thời nào của thờì ấy.

Nguyễn Biểu: - Ta không nói với ngươi. Người nước Nam ta nói ra lời tử tế với người chứ không nói lời tử tế với vật.

Trương Phụ: - Lưỡi mi chắc là dài lắm. Đừng múa may nữa. Hãy về Thuận Hóa thu xếp và hàng ta đi.

Nguyễn Biểu: - Đất ta rộng, người ta đông, quân ta đồng lòng, đồng chí. Lại có núi cao, sông rộng, đường ngang lối tắt bí hiểm. Quân nhà ngươi bao nhiêu năm hao mòn mà chỉ cắm chân một chỗ đấy thôi. Ngươi nên biết, người nước Nam còn thì nước Nam còn, mà người nước Nam thì như cây trên rừng, như cá ngoài biển đông.

Trương Phụ: - Vậy ngươi muốn gì ?

Nguyễn Biểu: - Lâu nay quân ta và quân ngươi đánh nhau, thắng thắng, thua thua, hai bên đều lĩnh đủ. Nay ta ra đây theo lệnh vua Trùng Quang bàn với ngươi hòa hoãn.

Trương Phụ: - A... Ha... ta từng nghe ngươi đọc thông kinh sử, thì ra chỉ là lời ba hoa. Ngươi không biết được thế của kẻ thắng và phận của kẻ bại. Ta nói ngươi hay, không có hòa hoãn gì hết. Không hàng thì ta làm cỏ. Ta thừa mệnh Minh Thành Tổ xuống đất Nam cái gì lấy được thì lấy, không lấy được thì bỏ.

Nguyễn Biểu: (Ngửa mặt lên trời) - Ta buồn và lo lắng thay cho nhà ngươi lòng cạn như đĩa dầu, đầu loãng như nước gạo. Tiếc thay ? Tiếc thay !

Trương Phụ: (Tức giận) - Im ngay ! Quân đâu ! Cắt lưỡi xong; chém đầu.

Nguyễn Biểu: - Lưỡi ta đây (thè lưỡi). Nhưng để ta nói thêm câu này: Đến cái nhẽ hai nước đánh nhau không được chém sứ giả mà người không biết ư ?

Trương Phụ: - Thôi ! Ta tha. (Đứng dậy, bước mấy bước, đầu cúi xuống, trở lại, ngồi xuống chỗ cũ). Ta sẽ đãi ngươi một bữa tiệc để thưởng cho giọng lưỡi nhà ngươi.

Nguyễn Biểu: - Khá khen sự biết cư xử của ngươi.

Trương Phụ: - Ta đãi ngươi món cổ kim hy hữu. Lính đâu, mang tiệc (cười một mình, vẻ đắc thắng).

(Tỳ tướng bê ra một cái mâm đồng, trên có phủ tấm vải điều đỏ, đặt xuống trước mặt Nguyễn Biểu, Nguyễn Biểu ngồi xếp bằng tròn, xắn tay áo, cầm đũa, giật tấm vải.

Một cái đầu người xòa tóc, trông rõ mắt, mũi, miệng. Vết chém ngang cổ bằng bặn, máu nhễu ra, đọng thành vũng trên mâm đồng)

Trương Phụ: - Ăn đi ! Xong ta sẽ tha. Sao, mày sợ rồi hả ?

Nguyễn Biểu: - Không (xắn lại tay áo) - Người Nam ăn đầu người Bắc đây. (Lấy đũa khoét mắt). Có mắt mà như mù (bỏ vào miệng nhai, rồi khoét óc) - Có óc mà si (nhấp một chén rượu, xong ném đôi đũa xuống mâm, đôi đũa cắm thẳng, đuôi rung rung trên cái đầu người lồi lõm).

(Trương Phụ, Phan Liêu, Trần Chưởng và bọn lính im phắc. Không khí nặng trĩu. Một làn khói từ ngoài ùa vào).

Nguyễn Biểu: (Rũ tay áo nhấp thêm một chén rượu rồi ngâm nga)

- Ngọc thiện trân tu đã đủ mùi

Gia hào thêm có cỗ đầu người

Nem công, chả phượng còn thua béo

Thịt gụ, gan lân hẳn kém tươi

Ca lối lộc minh so cũng một

Vật bày thư thủ bội hơn mười

Kia kìa ngon ngọt tày vai lợn

Tráng sĩ như Phàn tiếng để đời(*)

Trương Phụ: - Im ngay ! Và cút đi cho khuất mắt ta ! Cút ! Cút !

Nguyễn Biểu: - Ha, ha ! Ha !

(Tiếng cười Nguyễn Biểu vang to và vọng mãi cả sau khi ông đã khuất sau những làn khói trắng. Gió reo u u đây đó).

Trương Phụ: (Nhìn theo Nguyễn Biểu) - Xưa nay, người vậy không nhiều.

Phan Liêu: - Bẩm tướng công. Chí khí như cỏ gấu.

Trương Phụ: - Là sao ?

Phan Liêu: - Là cái sự lây lan ạ.

Trương Phụ: - Theo ngươi, ta nên làm gì ?

Phan Liêu: - Họ Phan, đến thần nữa là hai đời núp bóng tướng công, hưởng ơn Huệ Minh Thành tổ, thần xin tâu trình ngu ý của thần.

Trương Phụ: - Nói đi ! Mồm mày ngậm cái cứt gì mà ấp úng vậy ?

Phan Liêu: - Dạ ! Hào kiệt như Nguyễn Biểu xứ này tính đầu ngón tay. Tướng quốc muốn lấy nước Nam mà không có những người như Biểu việc e khó thành.

Trương Phụ: - Nếu nó không thần phục theo ta ?

Phan Liêu: - Được, là nhất; nhì, là bỏ ạ.

Truơng Phụ: - Ngươi nói có lý (với Trần Chưởng) - Cho ngươi lập công chuộc tội. Hãy mang 100 binh sĩ đuổi theo bắt nó về đây cho ta. Nếu nó hàng phục, ta cho sống. Nếu không, ta sẽ trói vào cột cầu sông Lam cho nước dìm chết như dìm con mèo.

(Phan Liêu ra. Trương Phụ đứng yên. Không khí im lặng)

VI

    

Sông Lam. Buổi sáng ngày 1-7 năm Quý Tỵ . Nước ròng. Thấy rõ những cái cột cầu đen, nham nhở, Nguyễn Biểu bị trói vào cái cột gần nhất. Ông đang dùng móng tay khắc chữ lên mặt gỗ. Máu đó cháy thành vệt dọc cột cầu. Hiện lên mấy chữ theo móng tay ông: "Thất nguyệt sơ nhất nhật, Nguyễn Biếu tử".

Tiếng sóng lao xao đâu đầy. Lúc lúc lại vẳng lên tiếng Nguyễn Biểu chửi Trương Phụ - "Trương Phụ, kẻ cướp, tàn ngược tham lam!". Bóng một con thuyền từ thượng nguồn sông La trôi về". Vẳng lên tiếng hát của người lái đò. Tiếng hát rõ dần nghe lẫn tiếng mái chèo khua nước.

Tiếng người lái đò:

Một dải sông xanh vắng ánh trời

Thuyền trôi sóng nổi mệt chèo bơi

Dân thường ngóng đợi mùa yên ả

Mỏi mắt năm qua tháng lại rồi

Bình trị nửa chừng còn lỡ dở

Cuồng ngông bèo rác lại nổi chồng

Hiện buồm rờ rỡ trời im gió

Tâm lặng, chí hùng, nước trở trong

(Phía xa, xuất hiện bóng lính vệ)

Tiếng lính: - Ê ! Đò kia quay lại.

Người lái đò: (Đã đến gần, cởi trần, đen trũi) - Đến cấm cả đường trên sông à ?

Tiếng lính: - Cấm tiệt !

Người lái đò: - Có cái lệ nào trái đạo trời, trái lòng người như lệ này không ?

Tiếng lính: - Vào dinh mà hỏi. Nếu không quay lại thì ta cho đi luôn xuống chơi Long vương Hà bá đấy.

Người chèo đò:(Quay thuyền. Rồi cho thuyền đứng im. Nhìn Nguyễn Biểu) - Giờ ta mới biết vì ngài mà nước sông không dám dâng. Nghĩa tiết của bậc sĩ phu đã động xuống tận thủy cung, vang lên thượng đế. Xin ngài nhận cho ta hai lạy. (Bổ quai chèo, lạy).

Nguyễn Biểu: - Ôi ! Trời còn cho ta cuộc gặp gỡ này. Bao việc ta chưa làm xong, bao điều ta chưa nói được. Mệnh ta chỉ là chiếc lá bàng vàng rơi nhẹ tênh, trôi nhẹ tênh. Nhưng rơi xuống đâu, trôi về đâu khi vận nước còn chìm nổi.

Người chèo đò: - Ngài chưa đi mà đã hiển thánh sai bảo được sông nước. Thiêng thay ! Thiêng thay !

Nguyễn Biểu: - Chắc trời sắp đặt cho ông đến với ta lúc này. Lòng ta đang cuồn cuộn nỗi niềm. Nhà Trần mới dựng, chấn hưng oanh liệt chưa được một ngàn ngày đã gặp cơn lốc hại do giặc Minh tàn ngược gây nên. Ta đã tỏ lòng trung tín, trình bày mối giường, dâng những kế sách lên vua, đã đánh thành xông trận, chém tướng giật cờ, sống không hổ mình với tiền nhân, bè bạn,vợ con. Nay, chết ta cũng giành cái chết của kẻ sĩ. Chỉ tiếc là lại chết trong tay tên tướng tàn ngược Trương Phụ và hàng thần thất phu Phan Liêu...

Nguời chèo đò: Người xưa nói: "Hình phạt không đụng đến bậc đại phu". Người có tiết tháo như ngài chớ nghĩ đấy là hình phạt. Bao kẻ giàu sang mà danh bị vùi dập tính không hết. Chỉ có người trác việt phi thường mới được người ta nhắc đến. Ngài thuộc loại thứ hai. Vậy nên đến nước này mà ngài không chút u hoài.

Lính vệ: - Ê! Tên kia ! Có quay lại không thì bảo.

Nguời chèo đò: Vĩnh biệt ngài. Dọc sông này mai kia ta có còn được nói chuyện với bậc tri giả như ngài nữa không ?

(Cho thuyền trôi chậm chậm. Ngửa mật lên trời, ngâm)

Người trước chẳng thấy ai

Người sau thì chưa thấy

Gẫm trời đất thật vô cùng

Riêng lòng đau mà lệ chảy (*)

Nguyễn Biểu: - Chao ôi ! Nàng Hộ của ta hát hay biết nhường nào. Nhất là khi nàng hát trên sông La. Giá lúc này được nghe tiếng hát của nàng. (Tiếng sáo xa xa. Im lặng ngoảnh nhìn về phía đông)

Tiếng hậu truờng: - Sông sâu tím ngắt bầu trời

Bèo trôi buồn chết dạ người giữa sông.

Xa xa tiếng sáo não nùng

Em nơi bến Sở, tôi trông đường Tần(**)

(Tiếng hậu trường nhỏ dần. Bất ngờ nổi lên tiếng gió, tiếng sóng và tiếng reo hò phía thượng nguồn. Trời sáng. Rồi tối. Rồi sáng. Rồi tối. Rồi sáng. Theo sự đổi thay của ánh sáng, khuôn mặt Nguyễn Biểu hiện lên lúc mờ, lúc rõ. Trương Phụ vào, theo sau là Phan Liêu, Trần Chưởng).

Trương Phụ: (Ngạc nhiên) - Mày còn sống ư?

Nguyễn Biểu: - Đúng.

Trương Phụ: - Mày chưa chết sao ?

Nguyễn Biểu: - Phải,

Trương Phụ: - Vì sao mày không chết, hả ?

Nguyễn Biểu: - Sao mày ngu thế. Sĩ phu nước Nam không ai chết.

Trương Phụ: (Một mình) - Nước không dâng.

Phan Liêu + Trần Chưởng: (Sợ hãi) - Đã ba ngày nay chúng thần không thấy nước sông Lam dâng.

Trương Phụ: - Kỳ lạ ! (tức tối). Để xem lời mày nói có đúng không? (Với Nguyễn Biểu) Mày bảo cái gì? Sĩ phu nước Nam không ai chết được à ? Xem đây ! (Rút kiếm đâm chết Trần Chưởng) - Thấy nó ngoẻo chưa, hả ?

Nguyễn Biểu: - Ha ! Ha ! Mày nhầm. Mày còn nhầm đến bao giờ nữa ? Kẻ vừa bị giết ấy có phải người nước Nam ta đâu ? Ta có thể chết vì mày, nhưng kẻ sĩ nước Nam như cây trên rừng nhiều lắm.

Trương Phụ: - Lính đâu.

Lính vệ: - Dạ, có chúng thần.

Trương Phụ: - Lôi cổ nó lên đây cho tao.

(Lính cởi trói cho Nguyễn Biểu. Kéo Nguyễn Biểu đi. Nguyễn Biểu gạt tay lính, đi lên bờ sông, quỳ xuống, ngoảnh về phía Nam lạy hai lạy)

Nguyễn Biểu: - Than ôi ! Vậy là sự nghiệp chấn hưng nhà Trần đã gặp nguy càng nguy hơn. Thần đã không làm trọn kế sách mà bệ hạ giao. Thần có tội với bệ hạ, với non sông. Xin vĩnh biệt bệ hạ, vĩnh biệt bạn bè, vĩnh biệt vợ con. Hãy tha thứ cho kẻ một lòng vì vua, vì nước, một dạ vì vợ con mà rốt cuộc chẳng làm nên tích sự gì.

Truơng Phụ: - Mày khóc ư ?

Nguyễn Biểu: (Bật dậy quắc mắt nhìn Trương Phụ) - Ta tế sống ngươi đấy mà.

Trương Phụ: - Lính đâu ? Giết nó cho ta.

(Lính vung gươm. Chỉ thấy ánh chớp lóe lên phía trên đầu Nguyễn Biểu và những cuộn mây đen ùn ùn chen lấn nhau phía xa xa).

VII

Sông Lam. Sóng dâng đều. Mềm mại. Tiếng sóng rào rạt. Trên mặt sông sương khói cuồn cuộn. Nguyễn Biểu hiện nửa người trong sương khói. Củng như cảnh IV, khuôn mặt Nguyễn Biểu lúc mờ, lúc rõ, như thực, như ảo. Giữa sương khói và trên sóng sông xanh, mềm mại hiện lên những cô gái mặc áo trắng, quần trắng, mờ ảo như những nàng tiên. Họ múa hát quanh Nguyễn Biểu :

Lời hát: - Sông xanh và sông xanh

Núi cao và biển rộng

Người ra đi như mộng

Kẻ ở lại u hoài

Sông xanh và sông xanh

Núi cao và biển rộng

Người ra đi như mộng

Giang sơn nhỏ lệ buồn.

Sông xanh và sông xanh

Núi cao và biển rộng

Người về trong sâu thẳm

Mối cô trung cháy trời.

Sông xanh và sông xanh

Núi cao và biển rộng

Đời người như con sóng

Dâng mãi mãi ngàn thu.

Sông xanh và sông xanh

Sông xanh và sông xanh

Màn

LỬA NGÀN SÂU

 “…Riêng cảm Tùng, Mai khí tiết, tinh thần một thác rạng trăng sao”

(Câu đối của Văn thân Nghệ Tĩnh điếu Phan Đình Phùng)

NHÂN VẬT

Hàm nghi: Vua Triều Nguyễn

Tôn Thất Thuyết: Thượng thư Triều Nguyễn

Phan Đình Phùng: Ngự sử Triều Nguyễn, Lãnh tụ phong trào Cần Vương

Cao Thắng: Tướng quân Cần Vương

Bà Lan: Vợ Phan Đình Phùng

Phan Đình Tuyển: Cha Phan Đình Phùng

Phan Đình Thông: Anh trai Phan Đình Phùng

Phan Bá Ngọc, Phan Bá Cam: Con Phan Đình Phùng

      Một số tướng lĩnh Cần Vương:

Cô Tám

Trần Xuân Soạn

Lê Ninh

Đinh Nho Hạnh

Đổng Nghinh

Lãnh Khai

Ngô Quảng

    Đại thần Triều đình Huế

Nguyễn Thân: Khâm sai Tiét chế quân vụ

Đinh Quảng: Tay sai Nguyễn Thân

Trương Quang Ngọc: Kẻ phản bội

Người hát xẩm, lão Thủ từ,  lính Pháp, lính tập, lính nghĩa quân và quần chúng.

Kịch xẩy ra ở miền Tây Hà Tĩnh vào thời gian 1885 – 1895

 Màn ngoài

Vùng trời miền tây Quảng Bình.

Trời tối lờ nhờ. Chốc chốc ánh lửa một chỗ nào đó lại lóe sáng soi rõ một đoàn người chạy vội vã giữa những gốc cây, dáng mỏi mệt. Gió rừng ào ào. Tiếng chân bước. Tiếng thở. Tiếng khóc. Tiếng súng nổ xa xa.

Tôn Thất Thuyết đi đầu đoàn phò giá vua Hàm Nghi, theo sau là 6 người lính khiêng kiệu, đám quan quân, tam cung[1], nữ tì, nhiều người lính vai đeo súng, mang vác, gồng gánh.

Đoàn phò giá: - Đi mau! Đi mau lên!

Đoàn người sấp, ngửa, nháo nhào chạy qua sân khấu

- Cố lên!

- Chúng đuổi gần rồi.

- Súng nổ đấy!

Vài người đứng dừng lại, sợ sệt. Tiếng súng nổ

- Chạy mau! Chạy mau lên! Có rừng mịt mùng che chở, khỏi lo. Nhanh lên!

Đoàn phò giá ra khỏi sân khấu thì lính Pháp và lính Triều đình vào

Lính Pháp và lính Triều đình: - Chúng không độn thổ, không thăng thiên được đâu.

- Ta truy riết từ Huế mà cứ mất dấu. Khốn khiếp!

- Mẹ nó! Xứ sở gì mà chỉ thấy rừng lại rừng.

- Đi! Phía phải kia.

- Đi! Đằng trái kia.

- Đằng trước ấy.

- Bắn đi!

- Trời tối rồi.

Vài tên lính giương súng bắn về phía trước.

- Không bắt được Tôn Thất Thuyết và Hàm Nghi không vô Huế, nghe không? Đồ khốn

- Đi! Đi!

Tiếng chân bước. Tiếng cành cây gãy. Tiếng gió ào ào.

Một

Mùa dông năm 1885.

Đền Trầm Lâm ở giữa vùng rừng huyện Hương Khê, Hà Tĩnh.

Mặt tiền đền cũ kỹ. Gian giữa, cánh cửa mở rộng. Qua khung cửa chỉ thấy một ngọn nến đang cháy trong khoảng không sâm sẫm. Chốc chốc ánh lửa nến loáng sáng hai chữ Cần Vương trên một tấm vải lơ lửng như đang bay, nom mờ ảo.

Phía trước là một khoảng đất rộng, có khá nhiều gốc cây. Hàm Nghi ngồi trên cái ghế có tựa bọc lụa đỏ. Tả, hữu là Thượng thư Tôn Thất Thuyết, Chưởng vệ Trần Xuân Soạn,

Gió rừng u u…

Hàm Nghi: - Từ bữa ra khỏi Huế đến nay đã mấy ngày?

Tôn Thất Thuyết: - Bẩm bệ hạ, tròn một tháng ạ.

Hàm Nghi: - Triều đình ra sao rồi?

Tôn Thất Thuyết: - Bẩm, đã nằm trong tay quân Pháp. Quan to, quan nhỏ, những kẻ không giữ được đạo làm tôi, bất tài, hám lợi, ươn hèn.

Hàm Nghi: - Ôi, ta buồn lắm. Hận lắm.

Hàm Nghi thở dài.

Tôn Thất Thuyết: - Xin Bệ hạ đừng bi thiết quá.

Người xưa dạy: Thành, bại, thịnh, suy là lẽ thường của tạo hóa.

Hàm Nghi: - Biết thế. Nhưng …

Trần Xuân Soạn: Bẩm Bệ hạ, Triều đình thúc thủ vô phương, nhưng dân tâm sỹ khí còn hàng triệu không vòng tay khuất phục. Xin Bệ hạ bình tâm.

Hàm Nghi: (Xa xót) – Đất mình, nước mình mà ròng một tháng trốn chạy, chui nhủi trong rừng, không có chỗ dừng chân (cay đắng) – Rồi sẽ thế nào đây? Cái ngày trở về xem ra mù mịt như sương khói ngoài trời kia.

Tôn Thất Thuyết: - Dạ thưa, việc nước thời loạn, khó bề đoán trước sự gì sẽ xẩy ra. Nhưng Bệ hạ khỏi lo, thần đã định liệu.

Hàm Nghi: - Pháp có còn đuổi theo ta nữa không?

Tôn Thất Thuyết: - Dạ, bọn chúng dừng lại bên kia Hương Hóa, Quảng Bình, đang tính phương trở vô Huế.

Hàm Nghi: - Chỗ này là đâu mà bốn bề trập trùng những núi với rừng vậy?

Tôn Thất Thuyết: - Bẩm, miền tây Hà Tĩnh,

Hàm Nghi: - Là chốn an toàn à?

Tôn Thất Thuyết: - Dạ! Dân Hà Tĩnh khí khái, trung quân, ái quốc là hào lũy bảo vệ bệ hạ.

Hàm Nghi: - Ta đã từng nghe …(Nhìn các tướng)

- Sau Chiếu Cần Vương của ta tình thế ra làm sao?

Tôn Thất Thuyết: - Dạ, thưa! Lửa trung nghĩa trong lòng sỹ phu và dân chúng vẫn cháy. Văn thân theo chiếu Cần Vương đã nổi lên khắp nơi.

Hàm Nghi: - Trước mắt giữ cho được lửa trung nghĩa trong lòng người.

Tôn Thất Thuyết: - Thưa Bệ hạ, chúng ta bỏ Tân Sở về đây là đang về với tôi trung để có trong tay dân khí, dân tâm mà thực hành công nghiệp cứu nước.

Hàm Nghi: - Tôi trung, dân khí, dân tâm? Đâu cả rồi?

Tôn Thất Thuyết: - Bẩm! Bệ hạ còn nhớ quan Ngự sử Phan Đình Phùng?

Hàm Nghi: (Đứng dậy) – Nhớ. Nhớ. Bữa họp đình thần ngươi và Nguyễn Văn Tường không theo di chiếu của cha ta mà phế bỏ Dục Đức tôn Văn lãng công lên làm vua, Ngự sử Phan Đình Phùng, đã mắng ngươi là kẻ càn rỡ, làm trái nghịch di chiếu, không còn nghĩa nhân thần. Sau đó ngươi đã bỏ tù ông ấy? Phải không?

Tôn Thất Thuyết: - Dạ, phải. Thần đã bỏ tù, rồi chính thần đã thả Phan Ngự sử. Ông ta còn mỗi cái danh Tiến sỹ về quê cày ruộng.

Hàm Nghi: - Nay nhà ngươi tiến cử?

Tôn Thất Thuyết: ­- Bẩm Bệ hạ! Phan Đình Phùng là người trí dũng quyết một lòng đánh Pháp. Bệ hạ sở thị triều đình nhan nhản quan to, quan nhỏ, người nước Nam, ăn lộc triều đình mà khi Pháp lăm le ngoài cửa Ngọ Môn đã cúi rạp cả xuống, mấy ai khảng khái đứng thẳng người vì cái trung với nước như ông ta. Thần Quý Ngự sử Phan Đình Phùng là vì thế.

Hàm Nghi: - Giờ Phan Đình Phùng ở đâu?

Tôn Thất Thuyết: - Biết bệ hạ đến Sơn phòng, Phan Đình Phùng và một số văn thân Hà Tĩnh đã kịp lên xin yết kiến.

Hàm Nghi: - Cho vào ngay.

Hàm Nghi ngồi xuống ghế, dõi mắt ra ngoài.

Tôn Thất Thuyết: - Mời các vị văn thân Hà Tĩnh.

Không khí trở nên trang nghiêm. Nghe tiếng hổ gầm trong đại ngàn. Phan Đình Phùng, Lê Ninh, mặc áo vải, vào.

Phan Đình Phùng (Lễ) - Chúng thần xin vấn an Hoàng Thượng.

Hàm Nghi: - (Đi lại gần Phan Đình Phùng) - Bình thân.

Phan Đình Phùng + Lê Ninh: - Đội ơn Hoàng thượng.

Phan Đình Phùng: - Để cho thành tan, nước mất, Thánh thượng mông trần là tội ở lũ thần hạ. Xin Thánh thượng gia ân. Lâu nay ở quê, lòng chúng thần đau đáu chờ cơ hội để đền ơn nước, trả nợ nhà. Được chiếu Cần Vương như đêm tối gặp lửa, lũ thần hạ dẫu chết cũng không từ, miễn đánh tan giặc Pháp để bệ hạ sớm hồi cung.

Hàm Nghi: - Trẫm còn trẻ người, non dạ đã gặp chính biến, nhờ Binh lộ Thượng thư Tôn Thất Thuyết và các trung thần mà thoát khỏi cơn binh lửa, vượt rừng, vượt núi ra được đến đây, tâm nguyện anh hùng, chí sỹ bốn phương Cần Vương chống Pháp.

Tôn Thất Thuyết: - (Đặt tay lên vai Phan Đình Phùng) – Xưa tôi với ông có lúc đối đầu. Nay ông đã cùng các văn thân đem quân lên đón xa giá thì ông đã lấy trung nghị làm đầu. Đúng vậy không?

Phan Đình Phùng: - Anh em chúng tôi một lòng, Lấy việc quốc gia làm trọng, không bao giờ để bụng tư tình.

Tôn Thất Thuyết: - Tôi biết thế rồi. Tôi đã nói là Hoàng Thượng về đây là về với tôi trung, với dân khí, dân tâm.

Phan Đình Phùng: - Có trời cao chứng giám, lâu nay giữa nhiều biến cố đa đoan tuy không có tài vương bá nhưng chúng tôi vẫn giữ được cốt cách kẻ sỹ, cái nghĩa tôi trung.

Lê Ninh: Dạ, thưa! Dẹp tình riêng, lo nghĩa lớn là phận sự của bọn văn thân chúng tôi dù ở thời bình hay thời loạn.

Hàm Nghi: (Xúc động) - Nước Nam sẽ còn vì còn nhiều nghĩa sỹ…

Tôn Thất Thuyết: (Với Hàm Nghi) - Xin Bệ hạ phong tước cho Phan Đình Phùng để dựng thế Cần Vương và để ông Phan dễ bề tụ hội anh hùng, chí sỹ.

Hàm Nghi: (Sau một lúc) - Ta phong Phan Đình Phùng làm Trung tướng quân, lĩnh Binh Bộ Thương thư, thống lĩnh các đạo nghĩa binh.

Phan Đình Phùng: (Quỳ lạy) - Đội ơn Hoàng thượng.

Hàm Nghi: - Bình thân. (Với mọi người) - Việc lớn phó thác cho các khanh, các khanh hãy tận trung, tận lực đừng có phụ lòng trẫm tin cậy.

Hàm Nghi đứng dậy đi giữa những gốc cây vào Đền Trầm Lâm. Tôn Thất Thuyết, Phan Đình Phùng, Lê Ninh cùng cúi đầu.

Cả ba: - Thánh thượng bình an.

Tôn Thất Thuyết: - Mời các ông ngồi.

Ánh sáng quét dọc sân khấu dọi sáng từng khuôn mặt.

Trương Quang Ngọc vào.

Trương Quang Ngọc: - Con thưa bẩm Ngài Thượng thư và quan Chưởng vệ. Con là Lãnh binh Trương Quang Ngọc đến đây xin thêm binh và khí giới để bảo vệ Tam Cung…

Tôn Thất thuyết: - Ấy là việc trọng; rồi sẽ có đủ. Giờ ngươi lui ra đi!

Trương Quang Ngọc: (Đột ngột chỉ tya vào các văn thân Hà Tĩnh) - Các ngươi là ai? Trông lạ hoắc.

Trần Xuân Soạn: - Tướng quân Phan Đình Phùng và các tướng lĩnh của ngài. Ngươi dám tự tiện vào lại còn ăn nói hồ đồ vậy ư?

Trương Quang Ngọc: - Bẩm. Con đang làm phận chức của Lãnh binh. Thấy các tướng đây giống mấy ông thợ sơn tràng mà đây giống mấy ông thợ sơn tràng mà dám vào bệ rồng để gặp Thánh thượng và ngài Thượng Thư.

Lão thủ từ: (Từ trong đền đi ra. Chỉ tay vào Trương Quang Ngọc) - Ôi con người trẻ tuổi, bụng dạ cạn đĩa đèn dầu.

Trương Quang Ngọc: - Thủ từ Miếu Trầm Lâm. Ông… Ông bảo ai bụng cạn đĩa đèn dầu hả? Thưa các ngài, lão còn bảo làm lễ cầu an cho Thánh thượng và ngài Thượng thư. Vớ va vớ vẩn thế.

Sấn sổ về phía ông lão. Trần Xuân Soạn tay sờ đốc gươm

Im lặng.

Lão Thủ từ: (Nhìn vào từng khuôn mặt) Ta nghe vua tôi các ngươi đi tìm đường cứu dân, cứu nước nhưng đêm qua ta thấy ngôi sao lạc rơi xuống đỉnh núi Độc Bình, nghe ngọn gió độc thổi lên từ phía biển. Gà gáy canh ba, ta gieo quẻ năm lần mãi cứ dương chứng rồi âm chứng. Đền Trầm Lâm sáng nay cứ sâm sẫm. Nén hương trên bệ thờ cháy được một nửa thì ngưng.

Tôn Thất Thuyết: (Ngửa mặt cười) - Ta đánh trận Binh Đài, đánh tòa Khâm sứ Pháp, rồi ta hộ giá Hoàng Thượng giẫm trên xác người chết thoát khỏi kinh thành ngổn ngang. (Đến trước mặt lão Thủ từ; giận dữ) - Ta đến chốn này để nghe những lời vẩn tâm, nhụt chí của lão ư? Lính đâu…

Lão Thủ Từ: - Ôi! Ngài nghe thì nghe, không nghe thì gió thổi nó vô rừng. (Quay về phía đền Trầm Lâm vái lạy) - Ấy, ấy … bao vong về Đền Trầm Lâm ứng vào ta báo lên Thánh Thượng hãy tuệ nhãn.

Hai lính từ ngoài vào

Phan Đình Phùng: (vội vả) - Xin khoan. (Với Tôn Thất Thuyết) - Thưa ngài! Dân khác quan là không có cái danh, cái lợi làm đục nhân tâm, nên nói ra được những lời ngay thẳng. Lời ông lão là lời dân gian, ngay thẳng, sâu nặng lắm. Tướng quân nên ngẫm suy mà tha cho lão.

Trần Xuân Soạn: - Ở đây chỉ có quân hộ giá và văn thân, đều những tôi trung sao lão bảo Thánh Thượng phải tuệ nhãn, hả?.

Lão Thủ tử: - Ôi ta không hiểu. Chỉ thấy trước mắt mưa gió mù mịt, mù mịt.

Tôn Thất Thuyết: (Quát) - Im miệng!

Phan Đình Phùng: (Với Tôn Thất Thuyết) - Thưa ngài, người dân trắng dám thốt lời nghịch nhĩ quan là người không tư tình, tư lợi; đáng trọng.

Tôn Thất Thuyết: (Với Lão Thủ từ) - Ta nể quan Ngự sử bỏ qua cái miệng lắm lời của lão!

Trương Quang Ngọc: - Lão già điên. (hai người lính kèm ông lão ra ngoài).

Tôn Thất Thuyết: - (uể oải ngồi xuống, đưa tay ôm đầu) - Dọc đường phò vua chạy giặc, khổ cực trăm bề, lại thêm công việc dự liệu thúc ép, khiến đầu ta lúc nào cũng như ủ một hòn than đỏ.

Phan Đình Phùng: - Chắc những công việc dự liệu của Ngài căn bản lắm.

Tôn Thất Thuyết: - Mấy năm qua ta chỉ biết lo che chắn bốn phía chung quanh để tránh những cú đánh của người nhà mình, có lo chi được cái căn bản. (cười cay đắng)… Nay, công cuộc kinh doanh chiêu tập quân binh, lập đồng. lập cứ đánh địch, ông và anh em đây thông thạo lo liệu.

Phan Đình Phùng: - Thưa. Thời cuộc khó khăn cho ta lắm. Người Pháp đông, khí giới tốt. Rồi còn bọn tiểu nhân cơ hội, núp bóng giặc Pháp ăn hiếp an hem cùng giống. Thêm đói khát, bệnh tật…

Tôn Thất Thuyết: (Ngắt lời Phan Đình Phùng) ­- Nói như quan Ngự sử thì còn chi mà đánh với đấm.

Phan Đình Phùng: - Còn lòng người, thưa ngài.

Tôn Thất Thuyết: - (Đứng dậy, đi quanh Phan Đình Phùng và Lê Ninh. Rồi khoát tay)

- Lòng người không địch được súng đạn.

Phan Đình Phùng: - Thưa, các bậc minh quân xưa dạy: Được lòng người thì thịnh, mất lòng người thì suy. Dựa vào đức thì bền lâu, ỷ vào sức thì chóng mất. Phép trị nước phải có ân, có uy, rồi dần dần lấy ân thay uy, lấy lòng nhân thay cho sức mạnh.

Tôn Thất Thuyết: - Lòng người, ân, đức, ư? Đều cần. Nhưng binh sỹ và vũ khí là hai thứ để giữ được ân, đức với nhân. Các ngươi nghĩ sao?

Lê Ninh: - Bẩm! Dân ta khổ nhiều rồi. Lửa âm ỉ trong ruột gan rồi. Nay có cờ cần vương quân sỹ bốn phương sẽ về tụ hội, khỏi lo về binh. Còn khí giới thì lấy của giặc làm của mình.

Phan Đình Phùng: - Làm được việc lớn phải có thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Ta chưa biết có thiên thời không, nhưng ta có địa lợi, có nhân hòa, cậy vào để thực hành chí nguyện.

Trần Xuân Soạn: - Ấy là lời sách vở.

Phan Đình Phùng: - Xưa, vưa Giản Định Đế không gánh vác nổi việc sơn hà, Nguyễn Biểu, Đặng Dung tôn Trần Trùng Quang lên ngôi Hoàng đế nhằm thống lĩnh trăm quân đánh giặc, chấn hưng cơ nghiệp nhà Trần đã lấy đất La Sơn lập cứ. Lê Lợi dùng Đỗ Gia làm cứ lại lấy đất La Sơn làm phên dậu. Các bậc tiền nhân tin dựa vào dân La Sơn. Bọn thần sẽ tụ hội anh hùng hào kiệt về Đông Thái, Trung Lễ - La Sơn để phất cờ Cần Vương.

Tôn Thất Thuyết: - Trước là vì có mạng vua, sau là vì lòng người, trong bụng các ngươi đã có chủ trương lắm, đã tìm được chỗ nương tựa căn bản. (Vỗ vai Phan Đình Phùng) - Ông cứ vì nước mà hết sức, trên này mọi việc rồi có tôi lo.

Cả hai: - Phụng mệnh vua cử nghĩa binh!

Sân khấu lóe lên nhiều ánh chớp.

Chuyển cảnh

Hai

Mùa xuân năm 1986

Nhà Phan Đình Phùng cũng là Nghĩa sỹ đường của Nghĩa quân ở làng Đông Thái, Đức Thọ.

Nhà ba gian. Gian giữa mở rộng cửa thấy rõ bày biện bên trong: một bộ bàn ghế cổ, phía trong cùng là bàn thờ, hương khói nghi ngút. Trên bàn thờ treo hoành phi, câu đối.

Phan đình Phùng đứng đầu bàn nhìn ra sân. Hai phía tả hữu có Lê Ninh, Ngô Quảng, Lĩnh Khai.

Một cái sân gạch rộng, nghĩa quân xếp hàng dọc, cờ quạt rợp trời, gươm đao sáng loáng. Chiêng trống vang rộn.

Phan Đình Phùng bước ra thềm trong tiếng reo hò của Nghĩa quân.

Phan Đình Phùng: Bớ anh em binh sỹ!

Ta phụng mệnh vua cử nghĩa binh để chống với cường địch cứu quốc gia, song việc đó là việc của mọi người dân, tự mình ta không gánh vác nổi, mới xin những bậc anh hùng chí sỹ, ở trong bốn biển, chín châu ra tài, ra sức cứu nước, giúp dân.

Nghĩa quân: - Chống cường địch, cứu quốc gia!

- Chống cường địch, cứu quốc gia!

Phan Đình Phùng: - Có anh em trên, dưới, bốn phương một lòng đem thân theo việc nghĩa, đánh giặc cứu dân, cứu nước, thề đến chết thì thôi.

Nghĩa quân: (đồng thanh) - Xin thề!

- Xin thề!

- Xin thề!

Lê Ninh: - Phụng mệnh vua, Đình nguyên Phan Đình Phùng đảm nhận chức Phấn trung tướng quân, lĩnh Binh bộ Thượng thư, thống lĩnh các đạo nghĩa binh. Tôi xin truyền báo với chư tướng và anh em nghĩa binh biết để một lòng phụng chỉ, một lòng phục vụ.

 Phan Đình Phùng: - (Khoát tay) - Anh em! Người xưa dạy, lễ không gì lớn bằng phận, phận không gì lớn bằng danh, danh phận là bờ đê của nước, danh phận chính thì cương thường mới lập. Lại dạy, làm tướng phải biết tin cậy anh em quân sỹ, mỗi người là một danh phận cho sự nghiệp vậy. Nên nay ra nhiếp phong cho một số người để gánh vác công việc mà nước non ủy thác.

10 người lính tay phất cao cờ tiến về phía trước và xếp thành một hàng, ngoảnh mặt về phía nghĩa binh. Chiêng, trống nổi.

Lê Ninh: Thừa lệnh tướng quân, tôi gọi các chư tướng sau lên nhận nhiếp phong:

Lê Ninh: Một, nhiếp phong ông Lãnh Khai làm Chánh Lãnh binh.

Lãnh Khai: (Sụp quỳ) - Đa tạ. Lãnh Khai xin phụng mệnh.

Lê Ninh: - Hai, nhiếp phong ông Đổng Nghinh làm Tác vi Phó lãnh binh

Đổng Nghinh: (Sụp quỳ) - Tôi Đổng Nghinh xin phụng mệnh.

Lê Ninh: - Ba, nhiếp phong ông Ngô Quảng làm Tán lý Quân vụ

Ngô Quảng: (Sụp quỳ) - Đa tạ Tướng quân.

Lê Ninh: - Bốn, nhiếp phong ông Đinh Nho Hạnh làm Thương biện Quân vụ.

Đinh Nho Hạnh: (Sụp quỳ) - Đa tạ Tướng quân.

Lính phất cờ, trống nổi đồn, tiếng vỗ tay.

Phan Đình Phùng: - Chúng ta đã phiên chế 12 đồn trại, đóng ở 12 địa điểm trong tổng Việt Yên. Xưởng chế thuốc đạn, rèn gươm giáo đặt ở làng Trung Lễ. Mỗi nơi có người chỉ huy với kỷ luật, điều khoản điều khiển nghiêm minh. Chư tướng, nghĩa binh ghi dạ và nghiêm cần thực thi.

Nghĩa quân: - Xin chủ soái yên tâm!

Nghĩa quân tuần tự ra khỏi sân. Tiếng động râm ran lan về bốn phía. Phan Đình Phùng trở vào nhà, ngồi xuống chiếc ghế kê trong cùng trước bàn thờ. Các tướng lĩnh ngồi hai bên bàn.

Phan Đình Phùng: - Sau lời hịch của tôi phát đi, đã có hơn ba ngàn nghĩa sỹ về dưới cờ chúng ta. Ta đã đánh thắng nhiều trận. Nghĩa binh có khí thế, nhân dân thì nô nức ấm lòng. Nhưng tất cả đang là bước khởi đầu. Các vị có cao kiến gì thêm.

Lê Ninh: - Thưa chủ soái! Khởi kháng được vậy là tốt lắm. Nay phải dẹp bọn trở mặt xu thời ở ngay trong làng ta, trong họ hàng ta.

Lãnh khai: - Xin cho đánh hạ mấy cái đồn trên đất La Sơn.

Phan Đình Phùng: (Đứng dậy, đi đi lại lại, mặt đăm chiêu) - Giặc Pháp đã xếp đặt xong việc Triều đình ở Huế. Vua Đồng Khánh đang đích thân mang theo 200 lính Pháp, 600 lính ta ra Quảng Bình để tiễu trừ nghĩa quân Hoàng Phúc và chiêu phủ dân tâm. Việc giặc kéo ra đánh ta chỉ là ngày một ngày hai.

Ngô Quảng: - Nó ra, ta đánh.

Lê Ninh: - Việc quân phải tính kỹ cái sự, cái thế. Sao nói dễ tuồn tuột như ông vậy. Thưa chủ soái, ta chuyển lên vùng rừng xây căn cứ trước khi nó ra.

Ngô Quảng: (Đứng dậy) - Bỏ đất này, xa dân Đông Thái, Yên Hồ, Trung Lễ khác chi cái cây mất rễ. Xin Chủ soái tính thêm.

Đổng Nghinh: - Còn gia đình, vợ con, mồ mả tổ tiên, ông bà, khi giặc đến ai giữ?

Lãnh Khai: - (Đập tay xuống bàn) - Cờ Cần Vương đã giương, ông còn tính gia đình, vợ con sao?

Lãnh Khai: - (Giận dữ) - Nói như các ông, chúng ta thành ra một lũ hèn!

Đổng Nghinh: - (Bật dậy) - Ông bảo ai hèn? Chuyện binh là sự họa phước, sinh tử hồ đồ được à?

Phan Đình Phùng: (Khoát tay) - Đừng nóng nảy. Đừng quên là anh em ta một nghĩa đảng, nằm một giường.

Im lặng. Những gương mặt bối rối.

Phan Đình Phùng: - Phàm dụng binh, tất phải kiếm một chỗ hiểm yếu để làm gốc, một chỗ địa lợi để giữ gốc. Ở Đông Thái có dân giúp đỡ, có gia đình ở bên mình lúc nóng lạnh. Nhưng không có thế đánh cũng không có thế giữ. Tìm nơi địa lợi có căn bản hiểm yếu xây căn cứ là trúng.

Lê Ninh: - Đặt ra cái thế mà bàn định là đúng lắm.

Lại im lặng.

Mọi người: - Xin nghe theo công nghiệp kinh doanh của Chủ Soái.

Phan Đình Phùng: Ông Đinh Nho Hạnh lên Đại Hàm có tin gì chưa?

Đinh Nho Hạnh: - Dạ! Đã gặp Cao Thắng, người lâu ni hô mưa gọi gió vùng thượng Hương Sơn.

Phan Đình Phùng: - Quân Cao Thắng đang lớn thế. Làm gấp việc hợp quân với lực lượng của ông ta, đánh mạnh vào đồn bốt địch trên đất La Sơn lấy quân lương, khí giới. Đánh càng nhiều, càng mạnh càng hay.

Nhiều người: - Chủ soái cứ giao việc, chúng tôi sẽ liều chết!

Phan Đình Phùng: - Kế sách đã có, các tướng thực hành.

Mọi người lần lượt ra, Phan Đình Phùng ngồi nguyên chỗ, nét mặt đăm chiêu. Lát sau, đứng dậy, chắp tay sau lưng, cúi đầu đi đi lại lại trong phòng rồi bỗng cất tiếng đọc thơ:

“Thức mục kinh thành tử tế khan

Thống tâm quân quốc lệ lan lan

Quyền gian trực dục hoà ngu Tống

Trung nghĩa na vi hận báo Hàn

Thảo mộc son hà phi cựu chủ

Vương hầu đệ trạch dĩ tân nhan

Các trung đệ tử kim hà tại,

Dao vọng Bình Sơn tẩm bất an”[2]

Từ gian nhà bên bà Nguyễn Thị Lan, vợ Phan Đình Phùng bưng một cải khay gỗ nạm bạc, phía trên có một đĩa xôi lạc ra.

Bà Lan: - Từ sáng tới giừ ông chưa ăn chi. Cứ thế ni thì lấy sức mô mà lo việc quân. Giừ thì ngồi xuống, ngồi xuống và ăn đĩa xôi nếp cái với cái lạc bãi sông La.

Phan Đình Phùng: - Ôi bà! Nếu không có bà thì Phùng này có làm nên được trò trổng gì không. 22 tuổi tôi đã thề với bà làm sao cũng chiếm bảng khôi nguyên. Vậy mà rồi trì trật mãi trên 30 tuổi mới đậu Đình nguyên. Tài học của tôi xem ra cũng chỉ trong bờ cõi từ chương cử nghiệp...

Bà Lan: Nhưng ông lấy đức thuần phát trung hậu làm gốc sự học nên được bạn phục, dân theo. Ôi nếu thiên hạ thái bình...

Phan Đình Phùng: - Rồi đến lúc ấy. Nhưng còn phải trải gian nan

Bà Lan: - Gian nan... Bao đận rồi.

Phan Đình Phùng: (Ôm vai vợ) - Tình thế cuộc đối đầu này lại thêm đận gian nan nữa. Tôi tính phải có địa thế căn bản; vậy thì, bà hãy cùng các con lên núi với tôi.

Bà Lan: - Ông đi mô, tôi theo, theo để chăm nom ông. (Ngồi xuống, chăm chăm nhìn chồng) - Nào ông ăn đi. Ăn đi cho tôi yên lòng.

Phan Đình Phùng: (Xúc động) - Bao năm tôi đã giúp được gì cho bà? Lúc bà đói khát, lúc con cái ốm đau, lúc bị lâm bệnh, tôi vô tích sự ở chốn quan trường, mặc một mình bà lo trong, liệu ngoài. Chao ôi, tôi hỏng quá..

Bà Lan: - Ông đừng nói thế. Ông đã từng dạy mẹ con tôi là cái gốc luân lý có ba điều cốt tử: vua, thầy, bạn. Ông giữ gìn cái gốc ấy mà làm nên sự nghiệp.

Phan Đình Phùng: - Một phần nhỏ thôi, còn thì đang ở phía trước.

Bà Lan: - Cái gánh giang san trên vai ông đang nặng lắm đó.

Phan Đình Phùng: Bà nói trúng. (Đi đi lại lại. Như một mình) - Thành tan, vua chạy, nước mất…dồn đến một lúc, thảm lắm, nặng lắm.

Bà Lan: - Ông ăn đi. Ăn xong lại nói chuyện vua, chuyện nước, chuyện dân.

Bà Lan đẩy đĩa xôi về phía chồng, nhìn ông một lúc rồi đi sang gian nhà bên

Phan Đình Phùng: (Một mình) - Ôi! nhân cảm sinh ra khí, nhân khí sinh ra dõng...

Phan Đình Phùng thắp một nén hương vái ba vái rồi cắm lên bàn thờ.

Chuyển cảnh

Đại đồn Ngàn Trươi.

Một gian nhà rộng, sâu hút về phía trong, nơi có những cánh cửa khép hờ. Chung quanh, rừng lợp lên rừng. Phía ngoài Cao Thắng ngồi cạnh cái bàn làm bằng nửa cây gỗ. Sau lưng, trên vách gỗ treo mấy khẩu súng trường kiểu Pháp 1984.

Một con đường xuôi xuống sông Ngàn Trươi. Hai bên đường, dưới tán lá cây, là ụ đất liền nhau.

Buổi sáng, sông xanh biếc, lặng lẽ.

Lão Thủ từ đền Trầm Lâm và cô Tám từ dưới bờ sông lên.

Lão Thủ từ: - Một mình luồn rừng Quảng Bình ra được đây, người liễu bồ phận gái nhưng cô cũng có hổ thỉ chí trai lắm, hả?

Cô Tám: - Già như cụ mà còn tháng mấy lần vô Sơn Phòng ra Vũ Quang, thì quả là chí trai cao núi.

Lão Thủ từ: Nhằm nhè chi, hỉ.

Họ lội qua một con suối cạn

Lão Thủ từ: Ra cô nghe tiếng mà lội suối, vạch rừng tìm đến.

Cô Tám: - Dạ, phải. Tui đã lênh đênh dọc sông La bốn tháng ni. Khổ cực và đói khát kể chi mô.

Lão Thủ từ: - Ra là cái danh gắn với tâm với uy, không động, cái danh cũng bay đi, bay đi bốn phương, tám hướng.

Cô Tám: - Lão đang nói về cụ Phan hay tướng quân Cao Thắng?

Lão Thủ từ: - Rứa cô đang nghĩ tới ai, hỉ?

Cô Tám: - Cả hai người ạ.

Lão Thủ từ: - Ông Cao Thắng tuổi Thìn sinh giờ Ngọ, tài năng của bậc vương bá, tính nôn nóng, thăng trầm bất định, hành sự phải thận trọng mới thành công. Duyên hợp tuổi Mùi. Cô Tuổi Mùi, phải không? Nét mặt ấy là Mùi rồi, hỉ?...

Cô Tám ngồi xuống cạnh một gốc cây, sửa tóc. Ông lão đứng, cây gậy trong tay vẽ ngoằn ngoèo lên mặt đất. Im lặng.

Cô Tám: - Cảnh nhà tui cụ tỏ. Tui đi tìm chỗ thực hành đền nợ nước trả thù nhà, chứ mô phải đi tìm cơ duyên .

Lão Thủ từ: - Cái duyên số nó nằm ngoài cái chí...

Họ tiếp tục đi

Lão Thủ từ: - Chốn này nghiêm ngặt lắm.

Hai lính, một cầm gươm, một đeo súng chắn đường hai người

Lính 1: (quát) - Đứng lại!

Lính 2: - Lão già, lão dẫn ai đến đấy.

Lão Thủ từ: - Khách quý hiền. Xin yết kiến tướng quân Cao Thắng.

Lính l: - Đợi đấy. (Đi về phía Cao Thắng, lát sau ra) - Tướng quân bảo cho vô.

Lão Thủ từ: - Ta không vô. Ta ra xưởng đúc súng. Ta có việc của ta, hỉ.

Lính 2: - (cười) - Nỏ có ai mời lão vô. Nỏ có ai cho lão vô...

Cao Thắng sửa sang áo quần, rút cây gươm lệnh đặt ngang trên mặt bàn phía trước mặt.

Cô Tám: (Từ ngoài vào): - Kính chào quan Đổng nhung.

Cao Thắng: (Nhìn thẳng vào mặt người đàn bà, giọng oai nghiêm) - Nhà chị làm thế nào mà vào được đến đây? Nhà chị gặp bản chức chắc có cao kiến dạy bảo?

Cô Tám: (Ngồi xuống cái ghế đối diện với Cao Thắng) - Thưa tướng quân! Thiếp tui nỏ có cao kiến chi. Đường xa lặn lội đến đây để trình lên tướng quân một lời thỉnh nguyện.

Cao Thắng: - Nhà chị cứ nói.

Cô Tám: - Thiếp tui là con gái quan Chưởng vệ Hoàng Phúc. Đồn sơn phòng Quảng Trị vỡ, cha tui và tướng đội Lê Doãn tập hợp dân chúng dựng cờ khởi nghĩa. Tuy phận gái nhưng từ nhỏ đã học võ nghệ, kiếm cung, tui cũng vô trận mạc. Lê Doãn tử vong. Rồi sau cha tui cũng lâm nạn. Nghĩa đảng lìa tan. Tấm thân tui lênh đênh trôi giạt.

Cao Thắng: - Rồi sao?

Cô Tám: - Tui rời đất Quảng Bình đến đây xin đứng dưới cờ.

Cao Thắng: - Chị là con gái Tướng quân Hoàng Phúc? (Một mình) Phận gái gặp cảnh éo le vào cái thời nhiễu nhương, loạn lạc...

Cao Thắng đứng dậy, cúi đầu đi dọc bàn. Chốc chốc lại nhìn cô Tám. Tiếng gió thổi trong đại ngàn.

Lặng lẽ.

Cao Thắng: - Chị Tám này... Chị là một nữ nhi can trường.

Cô Tám: (Xúc động) - Phu nhân của Tướng quân mới là can trường dũng khí.

Cao Thắng: (Ngạc nhiên) - Chị Tám biết Út Kiểu, vợ tôi ư? (Cúi đầu buồn bã).

Cô Tám: - Dạo tui với chị Trang, chị Điểm đi đò dọc trên sông La, sông Lam có bữa đỗ thuyền ở Chợ Tràng được gặp cô út Kiều đi quyên góp binh lương. Bữa đó, chị em chúng tui lên kế hoạch cảm hoá anh em lính tập để nhổ đồn Chợ Tràng nhưng việc không thành.

Cao Thắng: (Như một mình) - Cô ấy không còn nữa... Cô ấy bỏ tôi đi rồi!

Cô Tám: - Tui biết... Xin được chia nỗi đau cùng tướng quân.

Cao Thắng: - Đời tôi từ nhỏ đã ngộn ngốt đau thương rồi. Nó dạy tôi cách chịu đựng rồi. Mà đâu riêng tôi, đồng bào vạn, triệu người nữa... Tôi hiểu lòng chị. (Xa xăm) Ước chi thiên hạ thái bình có lúc giãi bày niềm riêng...

Cô Tám: (Một mình) - Chờ khi thiên hạ thái bình mới giãi bày nỗi niềm riêng...

Cao Thắng đi về phía con dường dẫn xuống sông Ngàn Trươi, đứng một lúc rồi quay lại.

Cao Thắng: (Bối rối) - Còn việc đứng dưới cờ cần Vương của Tám thì phải yết kiến Phan nguyên soái.

Cô Tám: (Như sực tỉnh) - Tướng quân xử trí sao tui được nhờ rứa.

Cao Thắng và cô Tám đi về phía trong. Nổi lên tiếng tù và hiệu thổi. Họ đến trước cánh cửa khép hờ. Cánh cửa từ từ mở ra. Phan Đình Phùng xuất hiện.

Cao Thắng: - Chủ soái an khang.

Phan Đình Phùng: - Miễn lễ. Tướng quân tự nhiên.

Nhìn cô Tám, rồi nhìn Cao Thắng

Cao Thắng: Trình chủ soái. Người này là ái nữ của quan cố chưởng vệ Hoàng Phúc ở Quảng Bình ra.

Phan Đình Phùng: - Ái nữ của Hoàng tướng quân ư? Bản soái có quen biết người. (Lại gần cô Tám) Nhưng sao cô lại lưu lạc đến đây

Cô Tám: (Chắp tay vái cụ Phan) - Bẩm chủ soái. Từ khi phụ thân tử nạn, nghĩa đảng lìa tan, tui phải lang thang trốn tránh, rồi đến đây để xin chủ soái được phục vụ nghĩa quân báo quốc thù, phụ hận.

Phan Đình Phùng: (một mình) - Gia nhập nghĩa quân ư?

Cô Tám: - Chủ soái yên lòng. Tui tuy là phận nữ nhi nhưng được cha dạy dỗ, rèn luyện từ hồi mới 15 tuổi, lại thêm những năm xông pha cùng nghĩa quân trên đất Quảng bình, chẳng nề hà mũi tên hòn đạn.

Phan Đình Phùng: Ta không nghi ngờ nghĩa khi, mưu mô đảm lược của cô. Ta đã biết nhờ có cô cấp tin giặc mà nghĩa quân phục kích đánh thắng trận Dốc Tứ Mỹ và phá tan căn cứ Tràng Sim. Còn ý định cướp đồn Chợ Tràng. Nam nhi mấy người sánh kịp. Ta băn khoăn là bởi... tướng quân Hoàng Phúc đã hy sinh cho đất nước, chỉ còn mỗi cô, rồi liệt sỹ Lê Doãn... Ta nghĩ, mũi tên, hòn đạn không chừa một ai... (Với Cao Thắng) - Ý Tướng quân?

Cao Thắng: - Đã có bao nhiêu nữ tướng làm nên việc lớn. Chủ soái hãy thu nạp cô Tám. Cô ấy xứng là con gái Hoàng Phúc tướng quân.

Phan Đình Phùng: (Với Cô Tám) - Hồi mới phát cờ khởi nghĩa, được dăm bảy khẩu súng cướp được của giặc Pháp. Sau Tướng quân Cao Thắng chế tạo được súng, rồi lãnh đạo nghĩa quân đúc súng, số lượng lên đến hàng trăm khẩu. Nhờ thế mà nghĩa quân đánh nam, dẹp bắc, thắng trận này tiếp trận khác, khiến giặc Pháp có trong tay lương đầy, súng mạnh mà phải lúng túng. Nhưng nay thì thuốc đạn thiếu, thiếu lớn. Cô đã từng sang Xiêm. Nay cô lại phải sang Xiêm. Chỉ có Xiêm mới giúp ta được. Làm được không?

Cô Tám: - Thưa Tướng quân, việc ấy tui đã quen.

Phan Đình Phùng: - Tốt quá. Trước khi sang Xiêm, cô xuống núi đốc thúc việc tiếp tế lương thực cho nghĩa quân và... ta nhờ cô gặp người thân của ta... Chao... Ta sinh ra gặp phải lúc gia biến, quốc biến, thê biến, tử biến.

Cô Tám: - Thời loạn,việc nước, việc nhà mấy khi trọn vẹn, thưa ngài. Bao chính nhân quân tử lấy việc nước làm trọng vẫn không khỏi canh cánh việc nhà đó thôi.

Phan Đình Phùng: - Cô an ủi ta đó ư? Giỏi lắm! Một người đàn bà ba chìm, bảy nổi vẫn nén cái đau trong lòng để an ủi người khác.

Cô Tám: - (Chắp tay) - Bẩm. Tui đâu dám.

Cao Thắng: (Một mình) - Tấm lòng đàn bà thăm thẳm

Cô Tám: - Chủ soái và tướng quân yên tâm. Tám này nguyện làm được công việc mà nghĩa quân phó thác.

Cao Thắng tiễn cô Tám đi. Họ đứng lại bên đường

Cao Thắng: - Đi luôn à?

Cô Tám: (Nhìn Cao Thắng) - Ở lại thì ai đi?

Cao Thắng: - Việc nước làm trọng. Thôi Tám đi đi. Cẩn thận giữ thân đấy.

Cô Tám đi. Cao Thắng nhìn theo rồi trở lại đến bên Phan Đình Phùng

Phan Đình Phùng: - Cô ấy đi rồi à?

Cao Thắng: - Cô ấy đi rồi... Đi vào chốn hiểm nguy mà cứ tỉnh bơ như đi chợ Phổ bán chè ấy.

Phan Đình Phùng: - Bao người như thế.

Lính 1: - Bẩm Chủ soái và tướng công! Tướng Lãnh Khai dẫn tên nghịch tặc Trương Quang Ngọc về, xin được vào ạ.

Phan Đình Phùng: - Vào ngay. Ta đã nóng ruột, sôi gan chờ đợi mấy ngày.

Lãnh Khai vào theo sau hai nghĩa bỉnh áp dẫn Trương Ngọc

Lãnh Khai: (Lễ) - Bẩm, việc Chủ soái giao tôi đã làm xong.

Cao Thắng: (Tay nắm đốc gươm): - Kẻ bán vua đây ư?

Lãnh Khai: - Dạ. Chính hắn. Hắn là Lãnh binh, phụ trách đội quân thiện xạ. Nên Hoàng Thượng không ngờ.

Phan Đình Phùng: - Sao ông Trương Quang Thủ lại có một thằng con trên quên ơn tiên đế, dưới trái nghĩa tôi con, phản phúc, bội nghĩa thế này...

Trương Quang Ngọc: - Hồi ở Sơn phòng lão thủ từ Miếu Trầm Lâm đã báo vận hạn cho các người. Giừ chịu chưa?

Lãnh Khai: - Hỗn hào!

Lão Thủ từ Miếu Trầm Lâm ào vào phòng, theo sau là lính 2

Lính 2: - Bẩm các tướng, ông lão nằng nặc xin vào gặp Chủ soái, tôi không ngăn được.

Ông Lão: - Lão phải nhìn lại cái mặt hắn, thằng ruột cạn đĩa dầu đèn dầu.

Phan Đình Phùng: (Với ông Lão) - Lão đấy ư? Ta nhớ đã gặp nhau ở Sơn phòng. Lão đã báo trước cho ta kẻ phản bội này... Sau đó ta bận việc binh mà quên lời tiên báo của lão để đến nỗi Thánh thượng rơi vào vòng tay bụi bặm của bọn ngoại bang. Ta có tội với vua. (Ngoảnh về phía rừng vái lạy) - Xin Thánh thượng gia ân tha thứ cho tội lỗi của lũ thần... Than ôi, tội này bao giờ lũ thần trả được...

Cao Thắng: - (Với Phan Đình Phùng) - Tướng công hãy bình tâm. Chỉ vì ông Tôn Thất Thuyết chạy sang Tàu bảo là đi cầu viện, bỏ vua giữa đường với một nhúm quân sỹ không đáng tin cậy. Tội ư? Tội ở ông Thượng thư kia.

Phan Đình Phùng: - Chúng ta không đuổi được quân ngoại bang ra khỏi bờ cõi nước nhà há không phải là tội đó sao?

Ông Lão: - Trước khi lách rừng, lội suối đến gặp tướng quân, ta đã chưng thường ở Miếu Trầm Lâm cầu an cho Thánh Thượng. Nghiệp gặp trắc trở nhưng mệnh không sao. Các tướng yên lòng mà lo cho tứ hải quần chu để nghiệp lớn thành mà khỏi đẩy chúng sinh vào bể khổ.

Phan Đình Phùng: - Với kẻ nghịch tặc này, theo ý cụ xử thế nào?

Ông Lão: - Ấy là cây độc. Là hoạ. Độc và hoạ. Hoạ và độc.

Phan Đình Phùng: - Còn chờ gì nữa hả? Chém! Chém!

Lãnh Khai và hai nghĩa binh kéo Trương Quang Ngọc ra.

Trưong Quang Ngọc: (giãy giụa) - Con xin...

Phan Đình Phùng: (Như với mình) - Bao người có khí phách tâm chí như núi cao, trước kẻ thù chỉ biết can trường quyết liệt, nhưng cũng không ít kẻ hèn nhát, cầu vinh, hưởng lợi buôn chúa, bán vua.

Khi mới phất cờ, binh, lương không có, ta đã quyết một lòng đánh địch, thề đến chết mới thôi, không gì làm cho ta lui sợ. Huống chi nay đã có căn bản hiểm yếu, quân thế và binh lực đã mạnh, văn thân võ sỹ xa gần kéo về tụ hội. Vậy mà ta cứ nặng lòng, buốt đầu lo nghĩ, không có được một nụ cười thoải mái với vợ con, anh em đồng chí, đồng cừu.

Cao Thắng: - Bẩm chủ soái. Đại trượng phu đền nợ nước thì lấy nước, lấy đồng bào làm căn bản. Chủ soái là người tâm viên chí cường đã làm như thế.

Chuyển cảnh

Bốn

Đại cảnh.

Cảnh xuất quân hào hùng.

Lớp lớp tướng sỹ trống chiêng náo động, cờ xí rợp trời, dẫn đầu là Phan Đình Phùng và Cao Thắng.

Tiếng vọng:

- Ta phụng mệnh trời ở ngôi thiên tử lúc nhà nước có việc hoạn nạn nguy nan tứ phía, dân gian khổ trăm bề. Ngoài thì giặc Pháp lăm le, trong thì triều đình lăng loàn, quyền thần hống hách. Kinh đô thất thủ dần mòn. Noi gương tiên tổ ta ra chiếu cần Vương gọi chí sỹ bốn phương tụ hội nghiến răng, rụng tóc, giết giặc cứu nước cứu dân.

(Chiếu Cần Vương của Vua Hàm Nghi)

- Lời Phan Đình Phùng:

- Ta phụng mệnh Vua, noi truyền thống hùng anh, quẳng nghiên bút, cầm lấy gươm đao, cử nghĩa binh chống cường địch. Hỡi các bậc anh hùng chí sỹ ở trong bốn biển chín châu cùng ra tài ra sức quyết một lòng vì non sông, xã tắc.

- Cảnh trên sông: Những đoàn thuyền chiến. Đứng đầu mũi thuyền dưới cờ thêu 2 chữ vàng: Cần Vương là Phan Đình Phùng và Cao Thắng. Tiếng hò, hô dậy sóng trên nền hát giặm:

Trống giong cờ mở

Trăm tướng, nghìn quân

Nhất thề đánh Tây

Nhất tâm ưu ái.(*­)

Cảnh trên núi: Lớp lớp nghĩa binh, gươm trần sáng loá, súng dựng uy nghiêm dưới những tán lá cây nghiêng ngửa trên nền hát giặm:

Tiền quân đi trước

Giải Chánh, Lãnh đi sau

Cờ phất phất ngọn lau

Giáo mác đà như cỏ

Ơn trời cao thuận gió

Cho thắng trận quân bền

Để quan lớn trẩy lên

Lên Sơn phòng như cộ (cũ)

Về Đại đồn như cộ (**)

- Cảnh trong làng quê: Những đoàn người gồng gánh mang vác chuyển tải lương thực lên núi cho nghĩa quân cần Vương trong tiếng thúc giục và hò reo trên nền hát giặm:

Dân Hà Tĩnh kiên gan

Đưa bạc tiền cung tiến

Hải vật đồ chê chán

Gạo thịt cứ miên man

Ở một cõi phòng san

Đủ mọi màu tứ thú (***)

- Cảnh trên núi đá: Phan Đình Phùng đứng uy nghiêm trên đỉnh núi chỉ huy lớp lớp nghĩa binh rượt đuổi giặc:

Phan Đình Phùng: - Hỡi ba quân! Tướng sỹ một lòng trung nghĩa, thà chết không lùi, đánh giặc đến cùng, giữ nguyên cương thổ cho giang sơn bốn cõi thái bình ... Hỡi ba quân!...

Năm

Đại đồn Ngàn Trươi.

Phan Đình Phùng ngồi viết bên cái bàn gỗ, thấy rõ màu gỗ mới bào. Hai bên là lính thị vệ. Phía sau là các tướng Cao Thắng, Lê Ninh, Ngô Quảng, Lãnh Khai. Phía trái sân khấu nhìn thấy rất đông quân lính đang luyện võ trên một bãi đất bằng. Xa hơn chút nữa là xưởng đúc vũ khí. Ánh lửa bệ rèn chập chờn.

Phan Đình Phùng đứng dậy đi đi lại lại. Mặt đăm chiêu.

Phan Đình Phùng: Mời các ông ngồi. Tôi mời các ông đến đây để nói đôi điều về tình thế và để nghe cao kiến của các ông.

Các tướng: Bẩm, chúng tôi đã chú tâm.

Phan Đình Phùng: Thưa anh em, cuộc khởi nghĩa của chúng ta rộng ra bốn tỉnh: Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình. Mấy năm qua đã làm cho địch mất ăn, mất ngủ. Nay thì có nhiều sự bất lợi. Ông Tôn Thất Thuyết sang Tàu tưởng xin được viện binh không ngờ cùng với mấy người tòng vong bị dẫn yên trí ở Thiều Châu. Hoàng Thượng thì bị Trương Quang Ngọc làm phản hiếp giá, đang nằm trong tay giặc Pháp. Triều đình Đồng Khánh đã sai Khâm sai Nguyễn Thân kéo hàng ngàn quân với nhiều quân lương, quân khí ra Hà Tĩnh. Chúng chặn đường tiếp tế của đồng bào cho nghĩa quân, âm mưu vây chặt Vũ Quang, dẹp chúng ta. Nhiều kẻ hèn nhát, cam tâm làm tay sai cho giặc đang lợi dụng đục nước béo cò làm bao chuyện vô đạo. Tình thế vậy, xin cao kiến của các ông.

Đổng Nghinh: - Tình thế như Chủ soái đã nói, thì có hai con đường ta phải tính là quyết nghinh địch hay rút quân vào sâu hơn, có thể sang Ai Lao.

Ngô Quảng: - Sang Ai Lao là kế sách bảo toàn lực lượng ư?

Lãnh Khai: - Ồng nói vậy là bỏ chạy? Là nó chưa lên đây mà ta đã chạy. Nói thế mà nghe lọt tai ư?

Phan Đình Phùng: Bình tĩnh. Nghinh địch hay lùi quân là việc ta đang cần bàn.

Ngô Quảng: Lùi quân để bảo toàn lực lượng.

Lãnh Khai: Đánh đến cùng.

Đổng Nghinh: Lùi quân.

Ngô Quảng: Đánh!

Phan Đình Phùng: (Khoát tay) - Các tướng bình tĩnh. (Với Cao Thắng) - Ỷ Đổng nhung Tướng quân?

Cao Thắng: Dạ thưa, tôi tính phải có những trận đánh lớn về đồng bằng để mở rộng địa bàn đất đai và dân cư, nếu không nghĩa quân ngày càng hao mòn, căn cứ ngày càng bị thu hẹp, lương thực khó khăn. Cứ thế ta sẽ, khó mà giữ được Đại dinh.

Im lặng

Phan Đình Phùng: - Tất cả một lòng: Đánh.

Cao Thắng: - Chủ soái quyết vậy là theo đúng thế binh, hợp với ý nguyện muôn người.

Lãnh Khai, Ngô Quảng: Đánh! Nam quốc vạn tuế!

Cao Thắng: - Bẩm! Chủ soái giao cho tướng Lãnh Khai bảo vệ Đại đồn, các tướng khác chỉ huy quân đánh xuống đồng bằng. Còn thần xin cầm quân đánh lấy tỉnh Nghệ An.

Phan Đình Phùng: - Tại sao lại đánh lấy tỉnh Nghệ An?

Cao Thắng: - Vì quân Pháp lấy tỉnh Nghệ An làm căn bản. Nếu ta ngồi giữ đây mãi đã chẳng phải kế cứu an, mà lấy gì kích động lòng người để mưu toan việc lớn. Bao nhiêu nghĩa đảng trong nước đang trông ngóng vào ta, nếu ta đánh mạnh thì họ sẽ ùa theo, tạo thành thế mạnh lắm. Lấy rừng núi làm chỗ thủ thành thì không xong. Bởỉ vậy ta phải ra tay trước, vừa đánh xuống đồng bằng vừa đánh ra phía Bắc. Mở lấy sinh lộ.

Phan Đình Phùng: - Nếu đánh Nghệ An, Pháp kéo quân từ Quảng Bình ra, Thanh Hoá vào thì tướng quân tính sao?

Cao Thắng: - Tôi sẽ đánh thần tốc để Pháp trở tay không kịp. Tôi hạ được thành nghệ An rồi các đạo quân thứ của ta thừa thắng ấy mà đại tấn chiếm Quảng Bình, Hà Tĩnh. Nghĩa sỹ khắp nơi sẽ nức lòng mà cùng nổi lên. Ta phải chủ được dải đất Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình mới làm nên nghiệp lớn.

Đổng Nghinh: (Băn khoăn) - Nhưng nếu tiến quân ra Nghệ an mà gặp bất lợi?

Cao Thắng: - Lợi và bất lợi là lẽ thường của trận mạc

Phan Đình Phùng: - Tướng quân nhất quyết sẽ cầm quân ra Nghệ An?

Cao Thắng: - Dạ, mong chủ soái thuận.

Phan Đình Phùng: - Lần này ông đi lòng tôi cứ không yên.

Ngô Quảng: - Xin Chủ soái bình tâm.

Cao Thắng: Xin tướng quân lo việc lớn ở Đại dinh chờ Thắng này trở về.

Phan Đình Phùng: (Như với mình) - Có lùi được sang mùa xuân?

Cao Thắng: - Thưa, việc lớn đã đến lúc không thể trì hoãn. Bếp than chống Pháp đang âm ỉ cháy ở đất Nghệ, tôi đi làm ngọn gió cũng đã là cơ hội.

Phan Đình Phùng: - Ôi Cao Thắng! Ông trí dũng hơn người. (Đặt tay lên vai Cao Thắng) Ta lệnh chọn một ngàn quân tốt, tập luyện cho thật giỏi, súng đạn phải chu tất, đường đi nước bước phải tính toán căn ke, cẩn mật, lương thực phải đủ đầy. Ta sẽ xem ngày lành tháng tốt. Chỉ mong tướng quân cẩn thận không khinh xuất. Ta sẽ lệnh cho Thứ quân Nguyễn Mậu ở Anh Sơn hổ trợ ông.

Lão Thủ từ: (Như một mình) - Phương đông thuộc Hoả, phương Tây thuộc Kim. Nay lấy hoả khắc kim tức là lấy lửa nung cho sắt, cho vàng chảy ra. Cho nên trang phục của quân sỹ phải toàn màu đỏ.

Phan Đình Phùng: - Lão nói trúng ý ta. Toàn màu đỏ. Và nữa, ta dặn thêm, với quân sỹ phải lấy tình anh em mà thu phục, lấy quân lệnh như sơn mà điều khiển. Nhớ... Ông là một nửa con người tôi...

Cao Thắng: Thần nhớ...

Phan Đình Phùng: - Ta sẽ chọn ngày, ban lệnh xuất binh. (Một lúc) - Biết khi nào Cô Tám về không?

Cao Thắng (Bần thần) - Dạ không. (Một lúc) - Việc nhà tướng quân...Tôi về cùng định liệu.

Phan Đình Phùng: Yên tâm mà đi và mang chiến thắng về.

Cao Thắng: Thần xin phụng mệnh. (Cúi đầu lễ tạ).

Phan Đình Phùng, Cao Thắng và Đổng Nghinh,Lãnh Khai, Ngô Quảng đi về phía cửa.

Qua khung cửa thấy những dãy núi đồi trùng điệp nhấp nhô, xanh thẳm. Tiếng binh sỹ hò reo lẫn trong tiếng gió rừng ào ào. Rồi tất cả lắng xuống.

Ấm nhạc nhẹ dần, khắc khoải.

Chuyển cảnh

                               Sáu

Nghị sự đường. Một màu trắng tang tóc. Giữa là bàn thờ Cao Thắng. Hai bên sân khấu chi tướng mặc quần áo trắng đầu chít khăn trắng, tay cầm gươm trần đứng thị kinh. Bức thưng bằng gỗ vàng óng nổi bật hai câu ai liễn thờ:;      

Câu 1: Hữu chí phất thành,anh hùng dĩ hĩ.”

“Vị tiệp tiên tử, thiên ý vị hà.

Câu 2: “Công cầu tất thành, kích tiếp thệ ngôn thanh quốc tặc.

Sự nan dự liệu, cứ yên kim dĩ thiểu tư nhân.”[3]

Âm nhạc ai oán.

Phan Đình Phùng mặc đồ tang, gục đầu trước bàn thờ Cao Thắng. Chốc chốc ông lại ngửng đầu, đôi mắt nhòe lệ, trống rỗng nhìn vào khoảng không.

Phan Đình Phùng: - Ông Cao Thắng ơi! Trời cao đất dày ơi!...Hu! Hu!...Hu!...

Tướng sỹ trong, ngoài khóc theo cụ Phan. Tiếng khóc nức nở, não nề đầy tiếc thương.

Phan Đình Phùng: - Xưa kia, Khổng Minh phó thác việc phục hưng Hán thất cho Khương Duy được mấy năm. Còn ta...Việc lớn đang dang dở mà ta đã già cả... Sao ông lại bỏ tôi mà đi? Ông Cao Thắng ơi!... Trước khi đi, ông nói với tôi việc nhà ông về cùng tôi bàn liệu. Vậy sao ông không về?

(Đi về phía trước bàn thờ, hai tay chơi vơi)

Trên trời cao, giữa cửu trùng ông có thấu rằng tôi, các chư tướng và nghĩa quân cần có ông kề cạnh biết mấy nhiêu.

Ông Cao Thắng ơi, sống khôn chết thiêng ông hãy về với tôi, với anh chị em nghĩa quân.

Tiếng khóc lẫn tiếng gió rừng, tiếng mưa rơi.

Im lặng.

Nghị sự đường mờ dần.

Cảnh phục hiện

Đại cảnh cuộc chiến ở đồn Nỏ.

Một bên là nghĩa quân Cần Vương do Cao Thắng chỉ huy.

Một bên là lính Triều đình do Một Phiến chỉ huy.

Tất cả hổn độn trong ánh sáng lờ mờ, tiếng súng nổ, tiếng hò hét giữa ánh chớp loang loáng.

Cao Thắng hiện lên sừng sững giữa trận tiền, trên nền tiếng Phan Đình Phùng đọc Văn tế:

“Thanh bửu kiếm mười năm sẵn có, đấng anh hùng dùi mài mãi chưa thôi.

Áng nhung trường một phút như không, con tạo hoá ghét ghen chi lắm thế

Nghĩa đồng ưu tưởng lại luống đau lòng.

Tình vãng điếu nghĩ càng thêm rơi lệ.

Nhớ tôn linh

Hào kiệt ấy tài.

Kinh luân là chí.

Vén mây nửa gánh giang sơn

Vỗ cánh bốn phương hồ thỉ.

...Nào ngờ đâu một sớm không chừng, mơ màng đạn lạc tên bay, trường chiến đấu biết đâu là số hệ.

Trong ba kỷ xuân thu tuy chửa mấy, trên yên ngựa đòi phen roi thét, trọng cương thường quyết nở mặt nam nhi.

Ngoài mươi sương sự nghiệp biết chừng nào, trước cửa viên bỗng chốc sao sa, thu linh phách vội cướp công tráng sỹ. ...Thôi thôi. Cửu thế lầu vàng đành kẻ khuất, đem thân bách chiến để tiếng thơm cho tỏ mặt anh hùng.

Súng đồng gươm bạc mặc người còn, truyền lệnh ba quân thét hơi mạnh để xây nền thịnh trị.

Thương ôi là thương. Kể sao cho xiết.”

Mờ dần.

Cao Thắng ngã vào cuồn cuộn sương khói.

Trở lại Nghị sự đường.

Lão Thủ từ trang phục Thầy cúng, tiến đến quỳ trước bàn thờ Cao Thắng. Bên cạnh lão là Phan Đình Phùng, quỳ, tay cầm ba nén nhang. Tướng lĩnh và Quân sỹ quỳ, nhiều hàng dài.

Lão Thủ từ: - Niên hiệu Hàm Nghi thứ 9 năm Quý Tỵ, tháng 10, ngày 28; Tín chủ con là Phan Đình Phùng ở thôn Đông Thái, huyện La Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, trú ngụ cùng nghĩa quân Cần Vương tại núi Vũ Quang, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh. (Nhị vái!)

Đứng trước linh tiền thay mặt anh em tướng lĩnh cùng trăm ngàn nghĩa binh khắp bốn phương non sông đất nước, lễ bạc kính dâng trầu cau, chén rượu, khẩu súng, thanh gươm với tấm lòng thành thề nguyện cùng chí, cùng tâm sống, chết vì nghĩa cả kính dâng tướng quân Cao Thắng. (Nhị vái!)

Trong khói hương nghi ngút và nước mắt tiếc thương giữa rừng sâu, núi thẳm trăm ngàn quan liêu quỳ lạy xin cầu nguyện Tướng quân siêu thoát. (Tam vái!)

Tịnh phách ví dầu thanh sáng hộ phen này cho tướng mạnh, quân bền. Linh hồn khôn thiêng rồi ngày khác sắc phong điện tế (Tam vái)

Phan Đình Phùng đứng dậy dâng hương. Các tướng lĩnh lần lượt dâng hương. Sân khấu mờ tối dần. Những ngọn đuốc sáng dần. Những đốm lửa trên những nén hương bùng lên

Phan Đình Phùng: (Đột ngột vung kiếm, mắt sáng quắc. Giọng như lệnh vỡ): - Các tướng đâu?

Năm tướng quân từ trong đám binh sỹ bước ra quỳ trước Phan Đình Phùng

- Lệnh cắt hai mươi bảy người canh gác quanh nơi tướng quân Cao Thắng yên nghỉ. Tang lễ kéo dài bảy ngày. Để ông Ngô Quảng ở lại còn tất cả các tướng tập trung quân sỹ, xuôi sông Ngàn Sâu quyết một phen sống mái với giặc.

Các tướng: - Quyết một phen sống mái với giặc!

Phan Đình Phùng: (Lặng. Nghĩ suy. Rồi tiếp, giọng buồn hẳn)

- Khoan. Chờ qua ngày tiễn tướng quân Cao Thắng.

Nhiều người: Xin tướng quân đừng bi thiết quá.

Tướng quân giữ gìn sức khoẻ.

Nhiều cô gái mặc đồ trắng mờ ảo như những nàng tiên tay nâng lửa nến xếp hai hàng đến trước bàn thờ Cao Thắng trên nền Văn tế:

Văn tế: - Non Thiên nhẫn phất phơ cơn gió thổi, thương người tiết nghĩa ngậm ngùi thay.

Nước Tam Soa thấp thoáng bóng trăng soi, nhớ kẻ trung trinh ngao ngán nhẽ.[4]

Chuyển cảnh

Bảy

Mùa hè 1894. Đồn Linh Cảm.

Cổng hình vòm, tua tủa những thanh sắt nhọn hoắt chĩa lên trời, nhìn ra một ngã ba đường đất đỏ au.

Hai lính tập ôm giáo đứng gác.

Khoảng gần sáng, không gian lờ nhờ.

Tiếng cú rúc xa xa.

Tiếng trống canh.

Lính 1: - Này, mày có sợ ma không?

Lính 2: - Có, không mà sợ.

Lính 1: - Mày nói cứ loanh quanh. Tao hỏi có hay không có mày lại trả lời có rồi không. Đúng là đầu củ nâu.

Lính 2: - Mày bảo ai củ nâu hả?

Lính 1: - Tao bảo rừng rú Vũ Quang ấy. Nhiều ma lắm.

Linh 2: - Nếu có ma thì... Thì ông Nguyễn Thân đã bị...

Línhl: (Đưa tay bưng miệng lính 2, ngó nghiêng), - Suỵt.

Lính 2: - Ông ấy đào mả cha, mả mẹ ông Phan...

Nếu có ma thì đã chẳng phải bị... (làm động tác cắt cổ).

Đội Tuần: (Ngoài vào, nắm cổ áo hai lính): - Đứa nào? Đứa nào vừa nhắc tên Phan, hả?

Hai lính: - Dạ bọn con đâu dám.

Lính 1: (Chỉ tay lính 2) - Hắn hỏi con có ma không. Con bảo là không.

Lính 2: Hắn hỏi con có ma không con bảo là không...

Đội Tuần: - Canh gác cẩn thận, không đi, không rời khỏi cảnh cổng, nghe không, hả?

Hai lính: - Không rời cảnh cổng. Nghe không, hả?

Đội Tuần: Mày dặn tao đấy à? Ranh con. Láo này. (Đánh lính)

Lính 1: - Cánh tay cứng như thép của thầy, nếu không may mấy ông văn thân Phan Đình Phùng, Cao Thắng gặp thì...

Đội Tuần: - Thì sao, hả?

Hai lính: - Thì chết ạ.

Đội Tuần: - Mày bảo ai chết, hả thằng ngu?

Lính 1: - Dạ, cái thằng gặp... Dạ con chết ạ.

Đội Tuần: - Liệu giữ cài mồm cái miệng. Biết không (Khua khoắng tay) - ngài Khâm sai Đại thần Nguyễn Thân ra đây mang theo bốn ông Tán lý, bốn ông Đề đốc, tám ông Lãnh binh. Chuyến này thì to chuyện. Bọn Văn thân cứ nằm ngủ trên rừng nhé.

Hai lính: - Dạ! to chuyện.

Đội Tuần: (Ra vẻ hiểu biết) - Dân đen, dân trắng đều phải làm hai sổ khai nam phụ lão ấu. Khai thật đúng, có gian dối là tiệt. Nay đi đâu phải có giấy thông hành... Nếu không có thì tiệt.

Nguyễn Thân tay chổng gậy hèo và Đinh Quảng tay phe phẩy quạt giấy, vào

Đội Tuần: - Lạy hai quan ạ.

Nguyễn Thân: - Ta bảo gọi mấy ả hát ca trù tối vô đồn, làm chua?

Đội Tuần: - Dạ! Bẩm xong rồi ạ. Thất, bát ả trẻ đẹp như hoa ạ.

Nguyễn Thân: (Gõ đầu gậy lên đầu Đội Tuần) - Được lắm.

Cha con người hát sẫm và cô Tám, cải trang thành người ăn mày, vào

Người hát sẫm: (vừa kéo nhị vừa hát - xẩm chợ) Trăng thời rằm, trăng thời rằm là cái mảnh trăng kia sáng tỏ như trăng rằm. Làm sao đây rửa được hờn căm cho đời...[5]

Đội Tuần: (Với lính 1 và 2) - Kiểm tra giấy thông hành mấy đứa kia. Không có gò cổ dẫn vào đồn.

Hai lính đi về phía cha con người hát xẩm và cô Tám

Lính 1: - Trình giấy! Không có, tiệt, nghe không?

Lính 2: (Nói nhỏ) - Biết hai ông quan to kia không? Đi! Muốn sống ra khỏi nơi này, tránh xa cửa đồn. Đi! Đi! Đại thần Nguyễn Thân mang theo bốn ông Tán lý, bốn ông Đề đốc, tám ông Lãnh binh. To chuyện rồi.

Cô Tám: - Con cắn rơm, cắn cỏ xin chú lính cho vô ngồi đây để xem những bộ xương cốt từ ngoài bờ sông bay vô... bay vô. Ấy đang bay vô, lù lù... Thấy không?

(Lính 1 trợn mắt, săm soi nhìn cô Tám)

Lính 2: - Ả nói chi lạ.

Cô Tám: - Có phải bị phơi nắng, phơi mưa... Nhiều.

Lính 1. - Đi! Đi! Nếu không ta ném xuống sông La bây giờ. Ném xuống Sông La... Ném xuống sông La...

Người hát xẩm: (Hát) - “Thương nhớ trông mong chàng trở ra về

Thiếp tôi thương nhớ trông mong

Nhớ thương anh ơi quằn quặn mà để trong lòng...”[6]

Bên ngoài vang lên tiếng kêu khóc, tiếng roi vút, tiếng quát tháo, tiếng chân người, ồn ào

Đội Tuần: - Có chuyện to rồi (Hấp tấp chạy)

Nguyễn Thân: (Đi về phía cổng đồn; với lính 1): - Ra bảo chúng nó dẫn bọn bị bắt vô trong sân đồn, không đánh đấm ngoài đàng, ngoài sá.

Lính 1: (Vừa đi vừa nói) - Bắt hết. Dẫn vô đồn. Dẫn vô đồn.

Tiếng vọng: (nối nhau, xa dần, nhỏ dần) - Bắt hết... Bắt hết...

Từng người, từng nhóm người bị đẩy nhào vào trước cổng đồn, đổ dúi dụi lên nhau. Những con người gầy gò, ăn mặt rách rưới, nét mặt sợ sệt có, căm giận có.

Đội tuần: - Còn chuyển gạo thóc, mắm muối lên rừng cho thằng nghịch đảng Phan Đình Phùng nữa không, hả?

Mấy tên lính áp giải quất roi lên đám người theo nhịp lời nói của Đội Tuần: Vút! Vút! Vút!...

Còn dám giúp giặc chống lại nước Bảo hộ Pháp nữa không? Hả? (Vút! Vút! Vút!...

Những người dân:

- Chúng tôi không giúp giặc.

- Không.

- Thà chết. Đây không hãi!

- Chết là cùng.

- Giết cũng xong. Không hãi!

Ba, bốn tên lính xông vào đám người. Từ đây trở đi không còn nghe rõ tiếng nói. Âm thanh hổn độn.

Nguyễn Thân: (Tức tối) - Kẻ mô phục dịch tên họ Phan ấy thì ta giết. Giết! Giết! Dẫn chúng nó vô đồn!

Nhóm người  bị bọn lính lôi sềnh sệch qua cổng đồn.

Đinh Quảng phơ phất cái quạt, quạt cho Nguyễn Thân.

Hai cha con người hát xẩm và Cô Tám ra xa đám đông

Người hát sẫm: (vừa kéo nhị vừa hát - xẩm chợ) Trăng thời rằm, trăng thời rằm là cái mảnh trăng kia sáng tỏ như trăng rằm. Làm sao đây rửa được hờn căm cho đời...([7])

Nguyễn Thân: - Dân Xứ Quảng nổi tiếng ngang ngạnh nhưng còn thua bọn người xứ này. Tại ở phép nước không nghiêm.

Đinh Quảng: Dạ. Và thiếu những vị quan cứng rắn nữa ạ.

Nguyễn Thân: - Tuần Phủ thấy thế à?

Đinh Quảng: - Bẩm. Tiếng tăm của ngài vang ra đất này trước khi ngài đặt chân tới. Ngài xông pha, dẹp loạn từ Phú Yên sang Quảng Nam, Quảng Ngãi, hai lần được Nhà nước bảo hộ tặng Bắc đẩu bội tinh. Người Nam phò Đại Pháp mấy ai được như Ngài.

Nguyễn Thân quay lại, vỗ tay lên đầu Đinh Quảng, cười.

Đinh Quảng cúi người, phe phẩy quạt.

Đinh Quảng: - Có Ngài về đây, tình thế khác trước.

Bọn văn thân bị ngài đẩy vô rừng, cùng đường, bí nước rồi. (Cười nịnh)

Nguyễn Thân: (Bực bội) Cười cái đếch gì, hử? Ta có quân sỹ, khí giới thừa mà không qua nổi sông Ngàn Trươi, núi Quạt. Mẹ kiếp.

Đinh Quảng: - Dạ! Ẩy là bởi... (Im lặng, lấm lét nhìn)

Nguyễn Thân: - Bởi... bởi cái con khỉ?

Đinh Quảng: - Bẩm! Cái lòng quy phục, cái sức dân giúp ngầm cho họ Phan còn nhiều ạ.

Nguyễn Thân: (Như một mình) - Muốn trừ văn thân phải chặt hết vây cánh của hắn.

Đinh Quảng: - Ngài thật anh minh.

Nguyễn Thân: - Ngài Bắc kỳ kinh lược sứ Hoàng Cao Khải đã gởi thư cho hắn, thằng nghịch đảng họ Phan ấy, nói điều hơn lẽ thiệt, khuyên hắn ra hàng, hắn không nghe. Chém anh hắn, hắn trơ trơ. Đào mồ mả bố mẹ hắn lên, hắn lặng thinh. (Trầm ngâm một lúc) Chẹn hết đường tiếp tế, ông ta vẫn lòng son, gan sắt.

Đinh Quảng: - Nhưng rồi ra con cá trong chậu, con chim trong lồng thôi ngài ạ.

Nguyễn Thân nhìn Đinh Quảng, lắc đầu.

Nguyễn Thân: Ta đã mất bao mưu kế, mấy sức lực mà chưa kết thúc được... Lũ văn thân cứ còn. Còn trên rừng, còn dưới sông, còn trong làng, trong xóm. Giết! Giết! Giết cho tới khi Phan Đình Phùng thành cái cây không rễ, không cành.

Đội Tuần: - Cái cây không rễ, không cành.

Hai Lính: - Không rễ, không cành.

Nguyễn Thân: Câm miệng.

Đinh Quảng: - Mong Ngài bớt giận để số đông được nhờ.

Đội Tuần: - Số đông được nhờ ạ.

Im lặng. Chốc chốc vang lên tiếng người kêu thét.

Đinh Quảng: (Như sực nhớ) - Dạ! Bữa nào đó ngài có bảo tôi làm cho Ngài một áng thơ.

Nguyễn Thân: (Quay lại, trợn mất) - Cái gì? Thơ?

Đinh Quảng: (Khúm núm) - Dạ, một bài thơ để khắc vào bia đá dựng trên núi Tùng Lĩnh, bên bờ sông La, xứ La Sơn này.

Nguyễn Thân (ủê oải) - Ta nhớ ra rồi. Đọc đi.

Đinh Quảng: Dạ, thần thảo thế này;

“Vệ giang chi anh.

Thạch trụ chi linh.

Thế xuất tuấn kiệt

Vị xã tắc sinh

Tây bình hữu tử.

Đẩu nam đại danh

Hồng Lam thiên cổ

Bi kệ tranh tranh”[8]

Nguyễn Thân: (Ngẫm nghĩ rồi dúi mũi gậy vào bụng Đinh Quảng) - Tuyệt. Tuyệt. Ông thế mà giỏi. Chữ mô ra chữ ấy. Hồng Lam thiên cổ. Tên tuổi, công trạng của Nguyễn Thân ta lưu mãi trên đất La Sơn này. Hay! Hay!... Cho khắc ngay vào bia đá. Khắc vào bia đá! Khắc vào bia đá!

Chuyển cảnh

Tám

Tháng 12 năm 1895.

Trong rừng Vũ Quang. Một cái lán lợp tranh săng. Một cái giường gỗ. Cụ Phan nửa nằm nửa ngồi trên giường. Quanh là các tướng Đổng Nghinh, Ngô Quảng, Lãnh Khai. Con trai Phan Đình Phùng: Phan Bá Ngọc, Phan Đình Cam và Bà Lan, vợ Phan Đình Phùng. Lính hầu đi ra, đi vào)

Phan Đình Phùng: (gượng dậy): Các tướng đâu?

Các tướng: - Có các thần.

Phan Đình Phùng: - Lại gần đây. Tôi và các đồng cừu khởi nghĩa đã mười năm nay, đến giờ công việc chắc hỏng muôn phần mà tôi đã lâm vô cảnh thập tử nhất sinh, không chi cứu vãn được nữa rồi. cổ nhân đã nói không sai” Mưu việc ở người, nên việc ở trời”, việc trời sắp đặt lỡ rồi, sức người không đổi xoay được nữa...

Lính Thị vệ (Từ ngoài vào) - Dạ, bẩm có Cô Tấm xin vào hầu.

Lãnh Khai - Cho cô ấy vào.

Cô Tám: (Sà về phía Phan Đình Phùng) - Sao đến nông nỗi ni hở trời cao, đất dày?

Phan Đình Phùng: - Cô về chậm quá. Ông Cao Thắng đi rồi.

Cô Tám: (Nghẹn ngào) - Dạ... Người ấy đi rồi!

Người ấy đi không với tui một lời. Hu! Hu!...

Phan Đình Phùng: Đừng khóc. Đừng khóc. Ông ấy đã đánh thành, xông trận, chém tướng, giật cờ sống không hổ mình với tiền nhân với non sông, xã tắc. Giờ thì ông ấy không xung trận nữa. Ông ấy chọn cái chết của bậc đại trung rồi. Còn ta.. Trời không dành vận.

Cô Tám: - Ông Cao Thắng đã bỏ dở dang việc lớn, giừ muôn họ, muôn dân đang nhìn vào Chủ soái. Chủ soái đứng dậy đi.

Phan Đình Phùng: - Ta biết... Giá mà ta đứng dậy được, ta cầm quân nghinh địch...

Phan Bá Ngọc: - Việc quân có các tướng, việc nhà có con và em Cam, cha tĩnh dưỡng thuốc men, cơm cháo cho đầy đủ. Việc mưu toan sự nghiệp phú cường đang cần cha khoẻ dậy.

Phan Bá Cam: (Đứng thẳng dậy, rút gươm) - Cha ơi! Con hết sức chịu rồi. Hãy cho con vài trăm lính, con sẽ dọc sông Ngàn Sâu về Linh Cảm sống chết với tên Nguyễn Thân.

Phan Đình Phùng: - Cái thanh thế, cái nguyên khí của mình lúc này mà kéo quân xuống đánh đồn Linh Cảm chỉ làm khổ nghĩa binh, làm khổ sinh dân mà thôi.

Nay tạm lui, tạm yên, sẽ liệu thế đánh sau.

Lãnh Khai: Chủ soái thường dạy chúng tôi là vì khí tiết, vì danh nghĩa, vì phận sự làm tôi đối với vua, làm dân đối với nước, dù ốm đau bệnh tật, gươm đao kề cổ cũng không được một lúc gục ngã.

Phan Đình Phùng: (Gượng cười) - Phải! Không được gục ngã.

Cô Tám: (Nắm tay cụ Phan) - Cụ ơi, tui ở Trung Lễ, sang Đông Thái... (Đắn đo, ấp úng) Mô cũng thấy cái chết lơ lửng trên đầu dân. Người sống và cả người chết đều không yên. Đến hào lý cũng có kẻ bị tử hình hoặc tru lục.

Phan Đình Phùng: - Ta biết... Ta biết Nguyễn Thân và đồng bọn đã triệt hết đường tiếp tế lương thực của ta... Nó đánh đập dân... Nó hành hạ nắm xương cha mẹ ta. Chao ôi!...

Đổ gục xuống

Giấc mơ

Nghĩa địa bên bờ sông Lam.

Những ngôi mộ lô xô.

Sông cuộn sóng.

Mặt trời tròn vo, đỏ như máu. Và sương khói.

Phan Đình Thông (Anh Phan Đình Phùng) và Phan Đình Phùng.

Phan Đình Phùng: - Anh, Anh ở đâu?

Phan Đình Thông: (Trên một ngôi mộ, trong sương khói)- Anh ở đây.  ...

Phan Đinh Phùng: - Anh ơi! Một năm rồi...

Phan Đình Thông: - Một năm?Mấy cõi? Có biết ta bị bắt không?

Phan Đình Phùng: - Dạ, biết.

Phan Đình Thông: - Có biết ta bị địch giết không?

Phan Đình Phùng: - Dạ, biết... biết...

Phan Đình Thông: - Có biết vì sao lại ra vậy không?

Phan Đình Phùng: - Dạ! Vì em! Em đã không nghe lời thư của Lê Kinh Hạp và Hoàng Cao Khải khuyên bỏ căn cứ, bỏ anh em chư tướng, nghĩa binh ra hàng giặc.

Phan Đình Thông: Ha...ha... - Giỏi! Giỏi!

Phan Đình Phùng: - Anh có giận em không?

Phan Đình Thông: - Lâm sự ấy, anh cũng làm như em. Ôi thằng em của anh; Giỏi! Em xứng danh kẻ sỹ Xứ Nghệ, xứng với dòng dõi họ Phan Đông Thái.

Phan Đình Phùng: - Nhưng cũng vì em mà mồ yên của bố mẹ chúng nó đào xới lên. Vậy em là kẻ bất hiếu phải không anh?

Phan Đình Thông: - Cái hiếu của kẻ sỹ thời loạn theo vận nước. Em đã đặt dân, nước lên trên; há không phải là đại hiếu sao. Bố mẹ cũng bảo với anh vậy mà. Bố sắp về. Đấy... Bố về kia kìa.

Phan Đình Phùng: Anh...

(Chạy về phía Phan Đình Thông. Phan Đình Thông biến mất. Phan Đình Phùng chới với, ngã).

Phan Đình Tuyển (Cha Phan Đ. Phùng) và Phan Đình Phùng.

Phan Đình Tuyển: (Hiện trong sương khói mờ ảo)

- Ông Ngự sử, ông Đình Nguyên, ông Chủ soái... Ha! ha! Con trai của ta giỏi lắm, không bỏ công ta dạy dỗ? Dậy đi con. Cha về với con đây.

Phan Đình Phùng: (Chắp tay lạy) - Cha ơi! Con cắn rơm, cắn cỏ lạy cha, tha cho con tội bất hiếu.

Phan Đình Tuyển: - Thời buổi hổn loạn, lòng người trần trắng đen mà ra nông nỗi.

Phan Đình Phùng: - Vì con mà anh Thông bị giặc giết, vì con mà cha và mẹ không yên nghỉ được phải lang thang trong sương khói giữa mưa nắng...

Phan Đình Tuyển: - Con trai! Con có ngôi mộ to phải giữ là đất nước, có người anh đang nguy vong phải giữ là mấy triệu đồng bào. Con hành xử như vừa rồi là người đại hiếu rồi. Nào! Dậy đi! Chúng nó đang vây ép con và anh em nghĩa binh...

Dậy! Dậy đi!

(Phan Đình Tuyển đưa tay về phía con trai. Phan Đình Phùng đưa tay lên, hụt hẫng...

Mặt trời tắt. Sương khói mờ mịt.)

Phan Đình Phùng: (Gượng ngồi.) - Anh em đâu?

Nhiều người: - Dạ! Có chúng thần.

Phan Đình Phùng: - Lâu nay bọn địch bày ra mấy chuyện để ép ta ra hàng, anh em đã rõ? Anh em lo cho ta lắm phải không?

Nhiều người: - Dạ! Phải.

Phan Đình Phùng: - Từ khi khởi binh ta đã chủ tâm là bỏ cả việc gia đình quê quán ra ngoài. Ta mà sửa sang phần mộ riêng thì đất nước kia ai giữ. Ta lo cứu ông anh của mình thì bao anh em trong nước ai cứu? Vì khí tiết, vì danh nghĩa, vì phận sự làm dân với nước, còn đôi chút sức lực ta cũng đem ra hết.

Đổng Nghinh: Xin Tướng quân đừng bi thiết quá.

Ngô Quảng: - Ôi, mấy thằng bán nước bợ đít giặc Pháp, viết thư này ra lời nọ, Chủ soái chấp làm chi.

Phan Đình Phùng: (Vẩy tay yếu ớt): Phải! Nào, mọi người lại gần ta. Gần hơn nữa. Ta mệt lắm rồi. (Lặng, thở gấp).-Ta với các ông một lòng với nhau đã mười năm, cùng xông trận, cùng chịu đau, chịu khổ. Nay nghĩ xa các chư tướng, xa anh em binh sỹ đã vì ta mà liên luỵ, lòng ta như dao cắt, ruột gan như muối xát, nguồn cơn bao kể xiết. Ta chết, các ông cho giải tán binh sỹ về quê cày cấy, giữ giường mối chờ thời cơ lại phất cờ, hạ hịch, dấy binh. Đừng để ngọn lửa trung nghĩa tắt.

Đổng Nghinh: - Dạ thưa!Tướng sỹ một lòng theo cụ đã mười năm, nay quyết theo cụ cho đến chết.

Lãnh Khai: - Xin Tướng quân tĩnh dưỡng. Việc chưa thành, tướng quân phải ở lại với chúng thần, ở lại với muôn dân.

Phan Đình Phùng: - Ta đang ở với mọi người đây,.. Ta đang chờ tin đầu nguồn Ngàn Trươi. Cái kế sa nang úng thuỷ của Hàn Tín đánh quân Sở ngày xưa. Bọn chúng Sắp càn lên chưa? Các chư tướng kiểm tra lại kè, đập, pháo hiệu, quân mai phục. Và củi khô để đốt lửa đầu nguồn Ngàn Sâu. Trận này phải thắng.

Các tướng: - Dạ! Tất cả đã chu tất. Tướng quân yên tâm tĩnh dưỡng.

(Lãnh Khai, Ngô Quảng và một số quân sỹ ra. Lão Thủ từ đi đi lại lại, miệng rầm rầm trong khói hươmg nghi ngút).

Phan Đình Phùng: (Với cô Tám) - Ông Cao Thắng cô đơn, tôi đã định nói với cô đến giúp ông ấy. Chưa kịp nói thì ông ấy đã bỏ tôi, bỏ cô, bỏ tất cả ra đi... Tôi trù liệu cử cô sang Xiêm mua súng đạn. Nhưng giờ thì thôi. Không kịp nữa rồi. Triều đình lại bắt tay với Xiêm rồi. số trời sao mà oan nghiệt. (Thở hổn hển).

Cô Tám: (một mình): - Vận nước éo le; lòng trời run rủi; mệnh anh hùng ngắn ngủi... Phận nữ nhi như tui chưa làm nên trò trống chi thì đã đứt gánh..

Phan Đình Phùng: - Xưa ta nói với Thánh thượng là sự nghiệp Cần Vương trụ vào thiên thời, địa lợi, nhân hoà; nay xem ra đã thấy không có cái trụ thiên thời...

Lão Thủ từ: (Quay về phía giường Phan Đình Phùng, một tay cầm đĩa, một tay cầm hai đồng tiền) - Dương Minh Táo Kim Tư Thiện Thiếu Âm Quân Hoả Tại Tuyên. Ất là Âm, ngũ hành hợp kim, năm nay Kim vận bất cập. Hoả khắc Kim... Ôi ông Đình nguyên Tiến sỹ... Ôi ông nho tướng, văn sâu, sử rộng, gốc vua tôi, cha con theo ngũ đạo thường, cứ đại hiếu, đại trung ... Mà đau vì hiếu, xót vì trung... Kim vận bất cập... Hoả hoả, kim kim... Tam thập... Tam thập... (những lời sau nghe không rõ)

Phan Đình Phùng: (Ngửa mặt) - Ngày 13 ư? Đàm Thiên, Thuyết Địa, Luận Nhân học từ nhỏ, biết lục khí, ngũ vận, tứ thời mà không biết được vận mình...Tối qua ta bốc được quẻ Càn; quẻ nói...

Bà Lan: (Với Phan Đình Phùng) - Xin ông nghỉ ngơi. (Với ông Lão) - Cụ ơi, cụ cầu thánh thần bốn phương, tám hướng cầu Mẹ Thượng Ngàn ngụ trong rú Vụ Quang cho chồng tui qua cơn vận hạn (Với Phan Đình Phùng) - Ông ơi, ông tĩnh dưỡng, thuốc men cho bình phục để tui được theo hầu ông mãi. Ông đừng bỏ tui, bỏ các con đi một mình.

Phan Đình Phùng: (Nắm tay vợ) - Bà tha lỗi cho tôi. Sinh ra thời loạn lạc, tôi bôn ba lo đền nợ nước, lúc nơi này, lúc chỗ kia, chẳng ngó ngàng, chăm lo được chút gì cho bà và các con. Mọi việc gia đình, họ tộc, xóm làng, một thân bà lo liệu. Chao ôi, làm chồng như tôi, làm cha như tôi có lẽ lý gì để nói với vợ con. Vậy là việc nhà tôi làm không nên, việc nước tôi lo không trọn. Tôi có tội với vua, với nước, có lỗi với nhà. (Với Phan Bá Ngọc) - Con... Con Con chép cho cha.

Phan Bá Ngọc: (Soạn giấy bút) - Con chờ cha.

Phan Bá Ngọc viết. Trong góc sân khấu ông lão Thủ từ Miếu Trầm Lâm quỳ, mặt hướng về phía rìmg, tay chắp trước ngực

Giọng Phan Đình Phùng:

“Nhung trường vâng mệnh đã mười đông

Vũ lược còn chưa lập được công.

Dân đói kêu trời xao xác nhạn.

Quân gian chật đất rộn ràng ong

Chín lần xa giá non sông cách

Bốn bể nhân dân nước lửa nồng

Trách nhiệm càng cao càng nặng gánh

Tướng môn riêng thẹn mặt anh hùng”.[9]

Tiếng pháo nổ. Rồi tiếng nước gầm réo. Tiếng súng. Tiếng kêu la. Tiếng hò reo của quân sỹ. Ánh lửa đỏ rực loang loáng.

Ngô Quảng: - Bẩm tướng quân. Ta thắng to. Bọn Pháp và lính tập trôi ngoi ngóp, ngoi ngóp, chết không biết bao nhiêu mà kể. Kế sa nang úng thuỷ... Ta thắng to, thưa tướng quân.

Phan Đình Phùng: (Mặt rạng ngời) - Hỡi tướng sỹ! Cho đốt lửa trên sông Ngàn Sâu để muôn dân thấy. Nào! Đỡ ta dậy. Dìu ta ra rừng.

 (Đổng Nghinh, Lãnh Khai, Ngô Quảng, Cô Tám và bà Quỳ đỡ Phan Đình Phùng ra phía trước sân khấu. Phan Đình Phùng đứng thẳng người dõi nhìn về phía xa,

Phan Đình Phùng: (Cảm khái) - Non sông tươi đẹp thế kia.

Phan Đình Phùng khuỵu xuống.

Phía sau rất nhiều ngọn lửa bốc cao, cháy sáng giữa núi rừng chập chúng. Sương mờ dâng lên.

Đoàn các cô gái, mặc đồ trắng, những ngọn lửa nến trên tay, mờ ảo hiện lên.

Họ đi, xa dần, xa dần trên nền lời điếu:

Lời điếu: “Trời đất xưa nay thế mãi. Đá dựng ngược nước chảy xuôi, đó vẫn non sông phường tuấn kiệt. Lam hồng nổi cơn bão tuyết, bách tòng úa rụng luống xông pha.

Đau đớn thay đê vỡ sóng vồ, giữa dòng trụ đứng; sao dời vật đổi, ngoảnh đầu người cũ phải bôn chôn. Đương lúc này gió thổi nhạn lìa căm giận lòng trời cay nghiệt; riêng cảm Tùng, Mai khí tiết, tinh thần một thác rạng trăng sao,,[10]

Màn.


Bình luận