logo

Truyện ngắn

CẦU GIẰNG

Bao nhiêu là người đã đi qua. Đến nay, cái tuổi của nó đã phải viết bằng ba con số. Sự già nua là màu đen và rêu mốc loang lỗ khắp thân thể nó. Nó thành vật chứng kiến vô tư và trung thực mọi sự diễn ra ở làng Giằng. Cái sự chứng kiến thật có ý nghĩa với dân làng Giằng, những người luôn có cảm giác bất an trước sự hiển hiện của những thứ họ từng biết, từng mắt thấy, tai nghe..


1. Sách cổ chép, ngày xưa có con đường Thiên Lý nối vùng đất này với các miền xa ngái đàng ngoài, đàng trong. Đường qua bao nhiêu là sông, là suối nhưng không có cái cầu nào. Người, vật đi lại bằng cách gì, sách không ghi. Nói là sách cổ nhưng là những mảnh giấy người thời nay viết. Người thời nay bỏ quên nhiều chuyện, riêng gì chuyện cầu qua sông.  Không có lợi cho thời họ sống thì họ cho quên.

     Đến năm nào đấy trên đường Thiên lý, bấy giờ dân chúng gọi đường quan, có cầu Giằng bắc qua sông Giằng ở làng Giằng. Cầu Giằng một nhịp, đúc bằng xi măng và đá, kết thành khối lặng câm đầy vẻ nín nhịn. Chiến tranh, bom đạn chém chát chúa lên mặt cầu, máu người tràn trên nền xi măng chảy tong tong xuống sông, rồi trăm ngàn cơn bão lụt, cầu Giằng vẫn trơ ra, im lìm. Bao nhiêu là nước đã chảy qua. Bao nhiêu là gió đã thỏi qua. Bao nhiêu là người đã đi qua. Đến nay, cái tuổi của nó đã phải viết bằng ba con số. Sự già nua là màu đen và rêu mốc loang lỗ khắp thân thể nó. Nó thành vật chứng kiến vô tư và trung thực mọi sự diễn ra ở làng Giằng. Cái sự chứng kiến thật có ý nghĩa với dân làng Giằng, những người luôn có cảm giác bất an trước sự hiển hiện của những thứ họ từng biết, từng mắt thấy, tai nghe..

      2. Nhà chị nằm trên một doi đất mọc đầy cây dại, cách sông Giằng dăm chục mét. Ngôi nhà khung tre, vách đất, lợp tranh cọ, không giống một nhà nào trong làng. Ngày cũng như đêm, mở cửa là mắt chạm vào cầu Giằng. Từ xửa xưa, cố nội chị từ miệt rừng xuôi theo sông Giằng kiếm sống bằng nghề bốc vác thuê. Rồi cố nội chị thành phu xây cầu Giằng. Cầu xây xong cố nội chị ở lại với một cô gái làng Giằng làm nghề chài lưới. Cố nội chị nói: “Rừng nó âm u, nhiều cái ác rình rập, sống thắc thỏm cả đời, nên tôi muốn ở lại với cô. Cô gái làng chài buồn buồn nói: “Tôi chưa lên rừng, chẳng biết nó thế nào. Nhưng không khéo ông tránh vỏ dưa thì lại gặp vỏ dừa. Chốn sông nước, cái giả dối như trong, đục của nước ấy.” Cố nội chị nói: “ Chỉ cần lòng dạ cô không đục”. Rồi họ về ăn ở với nhau trên một con thuyền gỗ mộc, đáy thuyền dày những lớp trảm. Thuyền cứ lênh đênh trên sông. Hai đời, đời cố và đời ông của chị ở dưới gầm cầu, đánh cá, vớt xác người, vớt gỗ giữa sông và ăn uống, làm tình, sinh đẻ trên thuyền. Ông nội mất, cha chị găm thuyền vào chân cầu rồi lên bờ dựng ngôi nhà này. Mẹ đẻ rơi chị trên lối ngõ dốc xuôi ra dãy bần ven sông và ném nhúm nhau xuống gầm cầu Giằng. Cái tên Rơi thành tên cúng cơm của chị từ âý. Từ cái tên gọi. Từ cái nhúm nhau mắc vào chân cầu. Và một mối quan hệ bí ẩn giữa Rơi và cầu Giằng như là định mệnh. Trong nhiều câu chuyện của người đàn bà độc thân, đều có bóng dáng cầu Giằng. Tất nhiên là lúc đậm, lúc nhạt và cũng tất nhiên có những câu chuyện khác về cầu Giằng không dính tới chị. Là vậy, nhưng khi nói về cầu Giằng giọng chị cũng cứ run rẩy và ánh mắt u buồn với một cảm giác tuyệt vọng nào đó.

        3. Hôm ấy, người trên tỉnh về Thị trấn Giằng tổ chức khánh thành cầu Giằng mới. Cầu Giằng mới bằng bê tông cốt thép, dài 60 mét, rộng 12 mét, năm nhịp, bắc qua sông và vượt trên một góc làng Giằng xúm xít mười bảy nóc nhà, cách cầu Giằng cũ về phía hạ lưu một tầm nhìn lúc trời âm u.

      Mờ sáng, chẳng có gì xẩy ra, sông Giằng vẫn trôi chậm rãi và bình yên. Mờ sáng, làng vẫn xao xác tiếng gà gáy góc này, góc khác, tiếng người gọi nhau í ới, tiếng chó sủa và tiếng gió thì thào mang theo mùi khói rơm từ những bếp lửa sáng sớm. Rồi con đường làng hiện rõ dần, trên đó xuất hiện, không phải những người quang gánh, cày cuốc trên vai, mặt nhìn xuống đất hì hụi bước như thường thấy mà là những người mặc áo quần nhiều màu nói cười hoan hỉ.. Một chiếc ô tô nháy đèn liên tục và rú còi riết róng chạy trước, theo sau là rồng rắn mô tô, ô tô…tiến về bãi đất trống bên sông Giằng, cạnh mố cầu Giằng đỏ rực băng cờ, khẩu hiệu.

  Bà Rơi yên lặng nhìn dòng người nườm nượp qua trước ngõ bằng cái nhìn băn khoăn. Chừng nửa buổi sáng, nhiều tiếng ầm ào, tiếng hô khẩu hiệu, tiếng hò hét kết thành những làn sóng ập vào làng Giằng, len vào cả chỗ bà đang ngồi. Rồi chìm đi. Rồi vang lên: “Trật tự…Trật tự…Thưa bà con…”. Tiếng nói dính vào nhau, nhẹ thênh thênh. Từ phía cầu Giằng mới vọng tới. Từ chỗ nào đó vọng tới…Bà Rơi đứng dậy bước ra ngõ, ngơ ngác nhìn lên những mảnh trời phía trên tán lá bần. Rồi bà tiếp tục đi, chốc chốc lại ngoảnh nhìn cầu Giằng với vẻ bồn chồn như để yên tâm là nó vẫn còn đó, nó chưa biến mất. Cái màu xám xịt, thứ rêu mốc u tối lì lợm bám cả trong ký ức của dân  làng Giằng đã bao nhiêu là năm tháng vẫn còn kia, xám xịt và u tối… Đi hết đường làng, bà gặp những bậc đá xếp dốc đứng lên mố cầu. Bà đứng lại. Bà lại nghe giọng nói nhẹ tênh tênh. Nó như vụt ra từ tâm thức, rồi nhẩn nha trong trí óc lỗ mỗ của bà. Quá khứ thực hiện quyền năng bướng bỉnh của nó, từng mảnh, từng mảnh dồi lên, chồng chéo... 

  4. Ba mươi năm trước, thành lập Thị trấn Giằng. Làng Giằng thành một góc của Thị trấn. Người kéo về ngày mỗi đông. Nhà cửa mọc lên. Xuất hiện những cơ quan, biển hiệu đỏ, xanh rực lên khắp nơi. Quán hàng chen chúc nhau. Đồ ăn nhậu, rượu chè. Không còn nơi nào yên tĩnh. Nhốn nháo, lừa lọc, đểu giả, giành giật…chảy vào khắp mọi ngõ ngách làng. Cha chị bỏ nhà xuống thuyền. Ông bảo: “Ở dưới sông, mát mẻ.”. Nhưng rồi ông bỏ nốt chỗ mát mẻ ra đi sớm. Bấy giờ ông 50 tuổi còn chị 25 tuổi. Dáng đậm, ngực nở nang, còn đôi mắt nhìn thì có cái vẻ ngác ngơ của kẻ lạc đường. Chị cứ như một cái bóng trôi từ cầu Giằng vào nhà, ra vườn, xuống sông, rồi từ sông lên vườn, vào nhà. Thi thoảng người ta mới thấy chị vào chợ Thị trấn mua bán gì đấy. Khi ấy, chị cũng như cái bóng, lặng câm trôi giữa chen chúc và ồn ào và trong những ánh mắt ham hố của bọn đàn ông. Mùa thu, mưa rây bột buồn buồn và se lạnh còn gió thì ve vuốt trên da thịt người, đám thanh niên bắt đầu cưỡi honđa lượn lờ trên các ngả đường trong làng. Họ đi qua ngõ nhà chị - ngôi nhà từng cứu sống ba người nhảy cầu tự tử và khâm lượm hai người bị chết đuối. Chỉ nghe vậy đã sợ hãi chưa ngẫm đến thật, hư.

        Một đêm nọ, gió từ sông thổi lên reo u u trong khe hở bức phên nứa đầu hồi nhà. Tiếng gì khác nữa trong tiếng gió ấy. Một cái gì đó không bình thường chẳng phải trong nhà mà ngoài trời đêm. Chị đứng dậy, choàng tấm khăn lên vai đi đến bên cửa sổ. Vườn cây, dãy rào tre dọc lối ngõ biến thành những hình thù kỳ dị, dập dờn như trôi nổi trên mặt nước. Xa xa chị nhìn thấy cầu Giằng sâm sẫm lơ lửng trong khoảng không giăng giăng mưa bụi.

       Chị đang định quay vào thì bỗng thấy một bóng đen hình người dặt dẹo,  liêu xiêu trên cầu Giằng. Chị đã từng thấy những bóng đen như thế. Người ta bảo đấy là hồn ma. Chốn này có nhiều người chết không còn thân xác, về đêm vong   cứ lang thang, bên này sông qua bên kia sông, lúc lướt trên mặt nước, lúc đi trên cầu và thường khóc ri ri, cười khành khạch. Chuyện ma len lách khắp nơi, choán cả một khoảnh trong đầu dân chúng làng Giằng.  Rồi quen, rồi thì quên đi. Khi Thị trấn Giằng ra đời, chuyện ma lại rộ lên. Không biết có ai thấy ma không, nhưng nỗi sợ hãi ma là có thật. Ban đêm chẳng mấy ai đi qua cầu Giằng.

      Chị căng mắt nhìn, cảm thấy ngực đau thắt. Một con người. Hắn đi, ngã dúi dụi, đứng dậy rồi lại đi. Chị bấm ngón tay cái vào ngón tay trỏ, theo lối ven bờ sông đi lên cầu Giằng. Cái bóng đen hình người kia như chờ chị đến nó đổ ụp xuống ngay dưới chân chị. Tiếng rên rỉ, tiếng cười, tiếng thở hổn hển và mùi rượu. Chị dìu con người ướt át như một xác chết về nhà. Mỗi cái giường duy nhất trong phòng; vì thế chị phải đặt người đàn ông mềm nhũn lên chiếc chiếu mộc còn ấm hơi da thịt chị. Phải cởi áo quần ướt ra khỏi người hắn. Chị nghĩ và cởi khuy áo, mở khóa thắt lưng… Chị làm những việc ấy thành thạo một cách máy móc, nhanh nhẹn và mềm dẻo. Cha chị và chị từng vớt người chìm, nổi trên sông vì lũ cuốn, vì chán đời, thất tình mà nhảy cầu tự tử. Một lần, thuở chị mười sáu tuổi, chị đã cởi bỏ áo quần một người đàn ông, tắm rửa cho anh ta trước khi người của chính quyền tới. Lúc ấy mắt chị mở to, không chớp. Mọi thứ trên thân thể anh ta khắc vào trí nhớ của chị, bám dai dẳng đến mất ăn, mất ngủ hàng tháng trời sau đó.

Lần này nữa. Lần này chị thấy rõ cơ thể đàn ông trần truồng từ trên xuống dưới… Đầy đặn, lồi lõm, ngăm đen. Chị cúi xuống. Hơi nóng từ người hắn thơm mùi rượu nếp phả lên ngực chị. Hắn thì thào, rét lắm, rét lắm…Chị kéo chăn phủ lên người hắn. Lát sau hắn lịm vào giấc ngủ, chốc chốc lại giật mình như đang trải một ác mộng nào đấy. Chị liếc nhìn hắn bằng đôi mắt thương cảm, rồi dón chân đi ra phòng tắm xây bằng gạch bên giếng nước. Chị dội nước lên mình, xòe hai bàn tay xoa lên ngực, xoa xuống háng, xoa dọc hai đùi, xoa mãi cho đến khi cơ thể nóng rực lên, nhiều chỗ run rẫy lên. Một cảm giác bối rối dòa lên trong lòng. Chị vào nhà đi đến cái chõng tre và nằm xuống, mắt mở chong, vòng tay ôm lấy hai đầu gối của mình.

       Hai người thức dậy cùng lúc. Hắn nói, đêm qua tôi say sỉn quá. Giọng hắn lạ lắm, nhẹ tênh tênh, như một làn sương sớm ướt át trên sóng sông Giằng, chờn vờn quanh người chị. Người đàn bà đứng dậy, đi xuống gian nhà bếp. Quay lên, chị ném bộ quần áo ẩm ướt của hắn và một mảnh ni lông vào tay hắn và nói, mưa to rồi, về đi.

   5.  Đêm hôm sau, bóng đen lại xuất hiện trên cầu Giằng. Lần này, hắn xuống khỏi cầu, lách qua những gốc bần rồi rẽ quặt vào ngõ nhà chị. Hắn đứng lại nơi bậc thềm. Bấy giờ chị đang ngồi   trên giường. Chị nghe tiếng người nhẹ tênh tênh: rét lắm, rét lắm….Chị bật dậy. Gian nhà im ắng, nghe rõ tiếng gió lào thào trên mái tranh lẫn tiếng người, nhẹ tênh tênh. Trời ạ, chị kêu thầm trước khi đưa tay mở cửa. Bóng đen hình người đứng đó, đối mặt chị. Mắt quen dần với bóng đêm, chị nhìn ra hắn. Chị lưỡng lự một thoáng rồi buông tay khỏi cánh cửa, quay lưng lại phía hắn. Bóng đen theo chị vào phòng. Đầu gối run rẩy va vào nhau, chị đổ người xuống giường. Hắn đến bên chị. Chị nhắm mắt. Sợ sệt, ngạc nhiên, chờ đợi, lờ mờ trôi ngoài suy nghĩ của chị. Hắn cúi xuống. Chị nói gì đấy, nhưng đôi môi mấp máy không thành tiếng. Hơi thở ấm áp, phảng phất mùi rượu nếp bao bọc lấy chị, luồn lách vào ngực áo chị, dai dẳng, ấm nóng. Chị buông mình, nghe khuy áo đứt phựt phựt và thấy hai ống quần bay qua đầu rơi xuống cái chạn để song nồi, rổ rá cạnh bếp.

   6. Nhiều đêm mưa giăng giăng và gió lạnh. Năm ấy sao mà nhiều mưa về đêm đến thế. Một mình chị trong căn nhà lặng lẽ. Hắn không trở lại. Nhưng giọt máu của hắn thì thành hình hài người trong chị. Từ một hồi ức về người đàn ông trần truồng. Từ một tâm trạng cô đơn lạnh buốt. Từ một cô gái già phá tung đè nén nhục dục hứng lấy cơn cuồng dâm của con ma rượu cầu Giằng. Như là định mệnh, chị trượt chân ngã trên lối dốc xuống thuyền và cái hình hài người ra khỏi chị, chìm xuống sông Giằng. Cú sẩy thai không ảnh hưởng nhiều tới sức lực con người từng sống với sông nước. Nằm trên giường hai ngày, chị dậy, xuống thuyền.

Rồi chị lên Thị trấn tìm gặp hắn. Vào giờ ấy cơ quan hắn vắng tanh. Chỉ còn hắn và chị. Thế nhưng hắn im lặng ra khỏi phòng, đi qua mảnh sân hẹp lổn nhổn sỏi đá, sắt thép, rồi theo con đường về làng Giằng. Chị im lặng theo hắn. Đến chỗ rẽ hắn đứng lại nhìn xoáy vào cái bụng lép kẹp của chị, ấp úng hỏi, không có gì chử? Người đàn bà ngơ ngác một lát, rồi hiểu ra. Đã có, nhưng nay thì không. Nói ra chẳng để làm gì. Hắn thở phào, không giấu diếm. Hắn nói,   hắn sắp lên tỉnh, làm lãnh đạo Ban quản lý các dự án xây dựng và vài ngày nữa là đi. Lặng một lát nói tiếp rằng, thời gian qua hắn sống trời ơi, đất hỡi, chị đã neo buộc hắn, thương hắn; rằng, nhờ thế mà hắn không thành con ma cầu Giằng. Hắn sẽ tu tâm, tu chí, sẽ làm nên chuyện. Hắn sẽ nhớ chị, lúc nào đó sẽ về thăm chị…Tiếng nói của hắn nhẹ thênh thênh như khói sương vương vất quanh đầu  chị. Chị nhìn nhanh khuôn mặt đang ngước lên của hắn và  nghĩ, thế là hết. Tất cả là bọt bong bóng trước mũi thuyền kể cả cái khoảnh khắc thân thể run rẩy trong khoái cảm. Như một phản xạ, chị áp hai bàn tay lên bụng dưới của mình và ngơ ngẩn cười.

Từ ấy, lối ngõ nhà chị lá rụng nẫu ra. Hàng ngày, chị lên con thuyền cũ kỹ, mái che rách nát dưới gầm cầu, thắp một nén hương cắm vào cái cốc thủy tinh đặt trên sạp gỗ và ngồi cho đến lúc sông bốc hơi nước mới trở lên ngôi nhà lẻ loi, đơn độc. Đêm đêm, chị vẫn chong mắt nhìn lên cầu Giằng chờ thấy bóng đen hình người và thích thú với cảm giác sợ hãi rân rân trên da thịt. Rồi một ngày đèn điện sáng lóa trên cầu, và mưa đêm ít đi. Những con ma cầu Giằng biến mất.

        Người đàn bà lặng lẽ đành phận gái già không còn xuống sông, lên cầu, vào thị trấn nữa. Chị sống nhờ vào những nguồn thu ít ỏi từ rau cỏ trong vườn. Tuổi chưa nhiều nhưng chị yếu ớt và nom hom hem, già nua. Thời gian đã không quên chị.

    7. Bà Rơi thường ngồi trên cái ghế gỗ nơi gốc sân, mắt đăm đăm nhìn dọc lối ngõ về phía cầu Giằng. Tâm trí bà đã lắc lay, nhưng trí nhớ thì cứ bám dai dẳng, thỉnh thoảng một kỷ niệm trở lại lóe sáng lên. Chân tay yếu, bà không theo lối dốc xuống con thuyền cũ kỹ đầy vết xước được nữa. Hàng ngày, bà ngồi trên ghế gỗ lâu hơn, nhặt từng mảnh lá rụng dưới đất lên nhìn ngó, rồi ghép chúng vào với nhau. Và như thấy ra cái gì đấy trên những mảnh lá ấy, khiến bà khi thì cười, khi thì khóc. Rồi đến một dạo, bà khóc nhiều hơn, đôi lúc run rẩy như có một cơn sợ hãi nào đó ập vào người. Thỉnh thoảng, người ta thấy bà lang thang trên cầu Giằng, có khi ngồi xuống xòe bàn tay xoa lên mặt xi măng lỗ chỗ, xám xịt. Dân làng cho rằng bà đã lẩn thẩn.

        8. Bà vừa đi vừa bấm đốt ngón tay như tính toán gì đấy. Ra giữa cầu, bà đứng lại nhìn vệt bóng đen của mình đổ dài trên mặt sông. Đúng lúc ấy, tiếng nói vọng lên từ đám đông tụ tập cạnh mố cầu Giằng mới: “ Cầu Giằng mới xây dựng theo công nghệ hiện đại thay cho cầu Giằng cũ đã từng…” Bà nghiêng nghiêng tai. Giọng ai quen, rất quen, nó nhẹ thênh thênh, như  sương khói… Bà cảm thấy tim đập dồn trong ngực. Rồi bỗng thấy như Cầu Giằng chùng xuống và bà thì đang rơi. Đáy sông xanh thăm thẳm.  

      Lúc ấy, dân làng Giằng nhớ ra họ đã thấy bà Rơi đi ngược chiều với họ mà không thấy quay về.  Mỗi cuộc đời đều gắn với một cái gì đó. Cuối cùng họ tìm thấy bà nằm áp người trên mặt cầu giữa một vũng nước mưa đêm qua đọng lại, cánh tay giang rộng, những ngón tay co quắp quặp móng xuống mặt xi măng, như muốn vò xé, muốn níu giữ cái gì đó.

             9. Năm … trước làng Giằng thuộc thị trấn Phúc Vinh có thêm cái cầu Giằng mới. Cầu Giằng xây thời Nguyễn gọi là cầu Giằng cũ vẫn được giữ nguyên, người ta bảo để xếp hạng di tích Lịch sử- văn hóa cấp tỉnh và phục vụ cho dân chúng trong thị trấn qua lại làm ăn, buôn bán. 

      … Sau đám tang bà Rơi, mưa kéo dài hàng tháng trời, dân làng nói cứ đêm đến lại thấy một bóng đen hình người nhoằng qua cầu Giằng, lách giữa dãy bần vào ngôi nhà giữa lùm cây dại; gần sáng thì  theo nẻo xuống sông rồi biến mất.   Chẳng biết hư thực thế nào./.


Bình luận