Cuối cùng ông Chủ tịch xã cũng bằng lòng dẫn tôi về làng Vạn theo con đường nhỏ đầy cỏ gằng và lá rụng men theo sông Nghẽn. Chúng tôi đi được chừng một cây số thì trời nhá nhem tối. Bóng đen cùng sương mù từ dưới sông bốc lên lởn vởn quanh những bông lau trắng rũ rượi, rồi dâng cao, dày đặc cả khoảng không vừa nãy còn trông rõ vô vàn cánh hoa bần đỏ bay lăm răm. Chẳng còn nhìn thấy màu sắc và đường nét của mọi vật nữa. Bên phải chúng tôi, dòng sông thầm thì, thầm thì... Cái tiếng sóng như tiếng người trò chuyện ấy khiến tôi không thể không ngoảnh đầu lại. Và tôi chợt thấy một bóng đen giống người đàn bà có mái tóc bay vật vờ đang tiến về phía chúng tôi. Người đàn bà lắc lư như đi trên các ngọn sóng. Tôi dụi mắt. Bóng đen ấy biến mất.
- Anh nhìn thấy gì không? - Tôi hồi hộp hỏi anh Chủ tịch xã.
- Không!
- Có ai ở dưới sông.
- Lâu nay dân đồn đại, cứ đêm khuya khoắt có một người đàn bà từ dưới sông lên chăm sóc lão Trìu. Bịa. Bịa tất! Từ khi xã mở đường mới, dân làng Vạn không ai qua lối cũ này. Rồi lão Trìu lên bờ ở, khúc sông này vắng như nghĩa địa. Mà sao anh lại quen biết cái lão Trìu ấy?
- Hồi ông ngoại tôi còn sống có một mùa hè mẹ tôi gửi tôi về đây ở với ông. Gần hai mươi năm rồi.
- Lâu thế mà anh còn nhớ? - Anh chủ tịch xã nói và đứng lại. Chúng tôi đã ra khỏi con đường rợp đầy bóng cây. Trời sáng hơn. Tiếng sóng thầm thì chỉ còn là tiếng vọng mơ hồ. Trên đầu chúng tôi một ngôi sao rơi về phía tây cháy một đường sáng dữ dội giữa nền trời đen.
- Đến nơi rồi - Anh chủ tịch xã nói giống như tiếng thở phào - Vậy là tôi đã đưa được anh đến tận nhà lão Trìu. Anh vào mà thăm hỏi lão ấy, còn tôi phải đến gặp ông đội trưởng đội sản xuất bàn công việc. Dù sao anh cũng phải về nhà khách của xã đấy.
- Vâng - Tôi đáp nhanh.
ẩy nhẹ cánh cửa liếp, tôi bước vào. Bầu không khí ẩm ướt thơm lừng mùi thuốc bắc, mùi chuối chín và một thứ mùi gì nữa lần đầu tiên tôi bắt gặp. Không nghe thấy một giọng nói, một bước chân nào và cả ngôi nhà như đang ngủ yên, mặc dù đèn rất sáng. Nhìn rõ từng đường nét nhỏ bé nhất ở những tấm ván thuyền thưng bốn phía chung quanh cháy lém đém chắc vì qua nhiều lần trảm. Mấy quả chuối vàng ươm cùng hai cái bát trên chiếc chõng tre, cái gường gỗ đang buông màn và tấm lưới lòng thòng rối như mái tóc của một người đàn bà đau khổ treo cạnh đó. ở đâu đây phía sau lưng tôi có tiếng lạch xạch như tiếng cửa liếp xê dịch. Tôi quay đầu nhìn. Chẳng còn nghe gì nữa. Im ắng đến rợn người. Tôi bước những bước dài về phía chiếc giường gỗ và vén màn. ánh sáng ngọn đèn soi treo nơi cột nhà bằng tre như chỉ chờ có thế ùa cả vào giường. Ông Trìu nằm nghiêng, đầu ngoảnh về phía cửa sổ - phía sông Nghẽn - lưng quay lại tôi. Người ông gầy khẳng, co quắp như một con tôm luộc. Mái tóc bạc, lưa thưa của ông uốn về phía sau vành tai để rõ chỗ hõm như cái lỗ đáo đựng đầy bóng tối nơi thái dương. Dưới cánh tay dài khô đét xuội dọc hông, những cái xương sườn sau lần áo lụa vàng mỏng thé cứ dồi lên, xẹp xuống. Dáng vẻ ông, thần sắc một nửa khuôn mặt ông khiến tôi không dứt được ý nghĩ về cái chết - cái chết tàn nhẫn không chừa một ai ở cõi trần thế nhọc nhằn này.
- Để yên cho ông ấy ngủ.
- Ai đấy? Tôi ngẩng đầu, quay lại, hỏi.
Không có tiếng đáp. Vậy nhưng tôi vẫn ngoan ngoãn tuân thủ tiếng nói của ai đó, ở đâu đó. Mắt không rời ông Trìu, tôi đi thụt lùi đến bên cái chõng tre và ngồi xuống.
... Tôi nhớ lần đầu tiên tôi gặp ông Trìu là vào một buổi sáng mát mẻ. Tôi ngủ dậy, trời còn lờ mờ nhưng trong nhà đã vắng ngắt. Ông tôi đã đến ủy ban hành chính xã, còn bà tôi, nói như dân làng Vạn là “đi bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”. Tôi ra sân rồi theo lối ngõ lên đường làng, rồi xuống bờ sông Nghẽn. Cả những chỗ ấy cũng vắng người. Tôi len giữa bãi lau, theo những tiếng kêu chim chíp, chắc là tiếng chim. Ra khỏi bờ lau, tôi nhìn thấy một con thuyền gỗ vẻ cũ kỹ, nằm dưới một gốc bần già nua. Trên thuyền có một người đàn ông ngồi, đầu cúi gục, thân như rũ xuống. Ông mặc cái áo vải nâu nom rõ từng sợi thô rám và cái quần màu xanh rách gấu. Khuôn mặt ông gân guốc lộ rõ vẻ hiền từ nhẫn nhục. Hình như tiêng động tôi gây nên đã đánh thức ông khỏi những suy nghĩ triền miên nào đó; ông ngẩng đầu nhìn tôi:
- Lên đây, lên đây chơi với ông. Ông nói như đã đọc được ý nghĩ trong bụng dạ tôi. Rồi ông vội vã đứng dậy đi về phía mũi thuyền cúi khom người nắm sợi dây nối với gốc bần kéo mạnh. Con thuyền rùng mình, lao vào bờ sát chỗ tôi đứng. Ông đưa hai cánh tay to lớn đen đúa về phía tôi, giúp tôi xuống thuyền.
- Cháu con cái nhà ai vậy? - Ông hỏi sau khi lấy cái gàu làm bằng mo cau múc nước sông cho tôi rửa chân.
Tôi đáp:
- Cháu là con bố Châu, là cháu ông Hộ. Ông cháu làm việc trên xã ấy!
Ông Trìu bật lên một tiếng cười khô.
- Ông biết. Ông với ông cháu là bạn bè từ hồi nhỏ. Chà, hồi ấy bọn tao chơi với nhau mới thích! Sau này ông cháu làm nên ông xóm rồi ông xã, có quyền...
Dù giọng ông không có vẻ tức giận, chỉ hơi day dứt thế nào ấy và cái nhìn thì vẫn hiền từ nhưng tôi vẫn thấy sờ sợ. Tôi ngồi thu người lại, im thít.
Thấy vậy ông vuốt tóc tôi:
- Chuyện người lớn bọn tao... Chà! ối thứ... Thế bố Châu của cháu có về thăm làng không?
Tôi lắc đầu, ông cũng lắc đầu theo... Đoạn ông cho thuyền trôi ra giữa sông. ở đây, gió mạnh hơn, sóng lớn. Con thuyền chòng chành. Dưới thuyền cứ nghe ì ọp, ì ọp. Tôi nghiêng ngửa theo nhịp thuyền lắc.
- Thích không? - Ông hỏi.
- Thích lắm ạ - Tôi sung sướng đáp.
Hình như ông cũng sung sướng như tôi. Khuôn mặt ông nở một nụ cười.
Bàn tay có những ngón to, thô ráp của ông mềm dẻo buông tấm lưới màu vàng ươm. Xong, ngồi chồm hổm ghìm thuyền ông nheo nheo mắt dõi theo những cái phao lưới trắng xếp một đường ngoằn ngoèo trên mặt sông đầy hoa bong bóng. Phao ngoi ngóp, tức là có chú cá sa lưới. Lúc ấy, ông rút cái vợt dắt nơi cạp quần trao cho tôi, còn ông vớ cái mái chèo ngắn chèo thuyền lướt tới...
Những ngày sau đó, chờ cho ông bà ra khỏi ngõ là tôi tót xuống sông với ông Trìu. Cái gì ở ông với tôi cũng đều mới mẻ và đầy hấp dẫn. Ông nói chuyện mới hay làm sao! Ông gọi tên, gọi màu các loại cây, từ cây bé đến cây to một người ôm không xuể ken dày hai bên bờ sông, ông gọi tên các loài cá, từ anh Bống, chị Thờn Bơn, chú Chép, gì Trôi, bác Trê, ả Diếc... Ông lấy tên các loài cá đặt tên cho từng khúc sông: Khúc Tôm, Khúc Hẻn, Khúc Mè...
Từ ấy, tôi không rời ông nửa bước. Chúng tôi cho thuyền lênh đênh dọc sông Nghẽn, buông lưới cất te, thả câu, chắn sáo. Người tôi nhanh chóng cháy đen và ngửi đâu cũng nghe mùi bùn lẫn mùi hoa bần. Bữa nào ông lên chợ Nhu bán cá, một mình tôi lái thuyền đi coi câu và đánh lưới như một anh dân chài thực thụ. Chợ về ông mua cho tôi một cái bánh gói bọc ba lớp lá chuối, ruột bánh xanh lơ, mịn màng thơm phúc mùi hành phi mỡ.
Chăm chú nhìn tôi ăn, ông hỏi:
- Ngon không con?
- Thưa bố, ngon lắm ạ.
Ông cười. Nhưng nụ cười bỗng tắt ngay. Khuôn mặt ông ngập một nỗi buồn trĩu nặng. Vì sao một con người tốt bụng cần cù như ông mà lại không có vợ, không có con? Câu hỏi cứ thắt lấy tim tôi.
- Bánh cô Thảo đó - Bất ngờ ông nói, giọng trầm, mắt nhìn vu vơ lên những sợi hoa bần bay lang thang.
- Cô Thảo nào ạ? - Tôi hồn nhiên hỏi.
- à... Cô Thảo. - Bánh - Gói... ờ... phải, mày không biết... Rồi tao sẽ đưa cô ấy về nhà. Tội nghiệp, cũng một thân, một mình.
- Ông có nhà đâu ạ? - Tôi buông giọng.
Câu hỏi vô tình của tôi đâm phải một chỗ nào đó trong lòng ông. Giọng ông gần như thầm thì: - Trước ông có nghèo thế này đâu. Ông có nhà hẳn hoi, nằm cạnh lối rẽ vào chợ Nhu, thế đất đẹp lắm. Đang yên thì ông chủ tịch xã sai người mang dây rợ đến cắt đất ông làm nhà cho con trai “Một thân, một mình chỉ cần sáu mét vuông” - Hắn nói thế. Dạo ấy, ông ở thuyền. ở nhà bụng dạ nó chẳng thảnh thơi chi, ngoảnh phía nào cũng thấy tường nhà người cao ngút ngợp. Nghèo, cực trăm bề. Hết cách, hắn xây hố xí ngay cạnh hè nhà ông. Đến thế thì phật cũng không nín chịu được. Buồn, ông cho thuyền xuôi sông Nghẽn, tính sang xã khác, nhưng bị đuổi về vì không có cái gọi là hộ khẩu. Hết nước. Chà! Ông sống gần năm chục năm, gặp người hiền, gặp bậc thánh cũng lắm mà gặp kẻ ác cũng nhiều, cứ như cỏ lác bên sông ấy.
Tôi nép sát vào người ông; áp mặt vào khuôn ngực ông.
Một giọt nước mắt của ông rơi xuống má tôi.
Sau đó ông mang giỏ cá lên chợ Nhu bán. Hôm ấy chẳng hiểu sao ông dặn tôi phải lau cọ ván sạch sẽ như thế nào, phải hái hoa bần bỏ vào khoang cá để cản mùi ươn ra sao? Mặt trời sắp lặn, ông mới về. Theo sau ông là một người đàn bà to lớn mặc quần láng đen, áo nâu, ướm màu hoa bần, đầu đội một thúng bánh gói vun chóp nón. Ông Trìu tắt ngang bãi lau, rẽ lá xào xào, vừa chạy, vừa khua tay gọi tôi:
- Ê cặp bờ! Cặp Bờ!
Tôi vứt giẻ lau, vớ sào, quay thuyền. Mũi thuyền chưa kịp áp bờ, ông đã nhảy phốc lên.
- Ghìm chặt - Ông nói và luống cuống kéo tấm ván bắc xuống gốc bần làm cầu. Nom ông khác hẳn, như một thanh niên.
Người đàn bà một tay kéo ống quần, một tay khuỳnh lên đầu giữ thúng bánh. Đặt hai bàn chân to bè bè lên cầu. chị nhún hai nhún. Tấm ván gỗ dài hơn hai đốt ngón tay người lớn oằn cần câu. Chị bước ào ào xuống thuyền. Con thuyền lắc mạnh, chúi mũi, tưởng lật.
Thấy tôi, chị ta chun cái mũi tẹt có rất nhiều đường đỏ li ti, hỏi ông Trìu:
- Con à?
- Đếch đâu! Cháu ông Hộ, Chủ tịch xã ta đó.
- Chơi với cả cháu Chủ tịch xã kia à? Ghê! - Chị ta nói giọng ồ ồ nhưng nghe hiền khô.
Ông Trìu khảy khảy ngón tay út vào khoé miệng, cười hề hề. Người đàn bà cười theo. Họ cười khá lâu. Tôi thấy gương mặt hai người rạng rỡ, còn trong mắt họ thì có những tia sáng phản chiếu như ngưng đọng.
Ông Trìu lấy bốn cái bánh gói dúi vào tay tôi và thân mật:
- Cháu về nhé! Ông có khách mà.
... Tối ấy, Vầng trang vàng rực gác trên ngọn cây bần đằng khúc sông cá Bống. ánh trăng lấp loáng chảy run rẩy trên mặt nước thẫm đen. Đó đây hiện lên những mảnh màu hồng mỏng tang mờ ảo. Tiếng sóng thầm thì, thầm thì, còn bên bờ sông, trong bãi lau lách tiếng côn trùng rộn lên rạo rực. Thuyền ông Trìu không buộc vào gốc bần như những đêm trước mà trôi lừ đừ giữa sông. Trong khoang thuyền có mái che làm bằng phên nứa kẹp lá cọ, vẳng tiếng nói chuyện rì rầm lẫn tiếng cười khúc khích. Rồi im lặng. Tiếp đó, vang lên tiếng lập cập, lập cập. Con thuyền rùng mình. Chòng chành. Chao đảo. Sóng dồn lên nhau, đuổi nhau ào ạt, đập vào bờ tung toé nơi gốc bần.
... Có tiếng động từ phía giường ông Trìu nằm; tiếp theo là tiếng thở khò khè vẻ khó nhọc. Tôi đứng bật dậy. Vừa lúc đó cái giọng nói lúc nãy lại vang lên:
- Để cho ông ấy ngủ. Tỉnh, ông ấy đau lắm!
Tôi đưa mắt nhìn quanh. Một khuôn mặt hiện ra giữa khung cửa, nơi giáp ranh ánh sáng trời và ánh sáng đèn. Khuôn mặt méo mó lúc rõ lúc mờ, cái bóng chập chờn nơi cánh cửa, tia chớp loé lên trong màn đêm tối sẫm phía xa, những cái đó gây cho tôi một cảm giác sợ sệt. Tôi bóp chặt những ngón tay vào nhau bước về phía cửa.
- Lại đây! - Tiếng nói phát ra từ bóng đen có hình thù người ở giữa sân.
Ngay lúc đó những tia sáng từ phía sau nhà chảy tràn xuống sân, xuống khối đen giờ đã hiện rõ một người đàn bà to lớn, mặc áo cộc tay, quần xắn cao quá gối. Trăng đã lên.
- Chị Thảo! - Tôi mừng rỡ lêu lên.
- ờ... Thảo đây. Nói nhỏ thôi! - Giọng chị ồ ồ cố nén. Lúc nãy tôi ở dưới sông lên thấy anh và anh Chủ tịch xã, tôi nép vào bụi mưng nghe hai anh nói chuyện, biết anh về thăm ông nhà tôi. Quý hoá quá! - Chị vuốt vuốt dọc cánh tay tôi, hổn hển - To và đẹp quá! Anh chẳng giống ông anh chút nào.
Chị vẫn nói ào ào, cử chỉ vẫn mạnh mẽ như ngày xưa, chỉ khác là khuôn mặt đầy đặn, cứng cỏi, đường nét linh lợi đã bị vết nhăn chằng chịt băm nát.
Chị ngồi xuống sân, duỗi dài đôi chân bám đầy bùn nghiêng người về phía tôi, nắm lấy tay tôi, kéo tôi ngồi xuống bên cạnh.
- Tôi gọi anh ra đây vì sợ anh làm ông ấy thức. Để cho ông ngủ. Tỉnh dậy, ông ấy kêu rên không ai chịu được. Lại còn nói lung tung, còn đòi xuống sông tắm nữa đấy chứ. Tội nghiệp.
- Ông đau lâu chưa? - Tôi hỏi
- Ba tháng hai ngày rồi. Tôi chạy đi chạy về với ông ấy.
- Thế trước đó? - Tôi hỏi, cảm thấy ý nghĩ của mình đang quẩn trong sương mù.
Chị cúi xuống, nhìn vào một chỗ nào đó trên thân mình. Đưa tay vuốt ngực, rồi trút một tiếng thở dài thườn thượt, chị nói bằng thứ giọng bùi ngùi:
- Xửa xưa ấy có cái chi ở tôi làm ông phải lòng. Người tôi có xinh xắn chi, của nả không có, nhà cửa cũng không, kẻ thân, người thích cũng không nốt. Vậy mà phiên chợ Nhu nào bán cá xong ông cũng xà vào quán tôi ăn bánh gói. ăn bánh thì một, ăn ớt thì mười. Giỏi chịu cay đến khiếp. Ăn xong cứ ngồi, ngồi nhìn tôi chằm chắm. Một bữa tối ế bánh, ông ấy bảo mang cả xuống thuyền cho ông, ông mua cho khách. Thì xuống! Đó là bữa tôi gặp anh. Hồi ấy anh bé con, gầy khẳng, da nhợt như da cá mái... Thấy ông ấy ở một mình, tôi thương. Nghĩ mình ở một mình càng thương... Tôi làm vợ ông ấy. Tuy chẳng đăng ký, đăng kiếc chi, vẫn là trao xương gửi thịt cho nhau, tôi và ông ấy thương nhau lắm. Hai năm, rồi ba, tôi vẫn không có con. Chán quá. Đàn bà nó thế. Có chồng là phải có con. Tôi nói: vợ chồng ta khoẻ như trâu cả, không có con chắc vì ở trên thuyền nó cứ chòng chành, chòng chành. Phải lên bờ, làm mái nhà, tre pheo chi cũng xong. Chiều tôi, ông ấy lên xã xin đất. Họ chỉ cho một bãi đầy cây xấu hổ và cứt chó sau lăng cụ Thượng lại còn phải bắt nộp hai mươi lăm nghìn một trăm đồng. Có bán cả thuyền, cả tôi, cả ông ấy cũng không đủ. Chịu! Tôi ít khóc mà dạo đó mắt cứ ướt nhoè. Một hôm, ông ấy gây sự cãi nhau với tôi rồi đuổi tôi đi. à, đã thế thì xong ngay. Tôi đứng đầu mũi thuyền nhảy phốc một cái, bíu vào cành bần, rồi theo thân cây tuột xuống gốc, đi thẳng. Nói là đi thẳng nhưng bảy lần tôi ngoảnh đầu nhìn lại. Ông vẫn đứng trên thuyền tay ôm ngực, khóc hô hố. Cho khóc!... Mãi sau này tôi mới biết, ông Trìu bày ra cái sự ấy chỉ vì thương tôi, muốn cho tôi có con. Tôi về chợ Nhu nhưng cái lều tôi ở không còn nữa. Thay vào đó là một ngôi nhà to, cao. Hỏi ra mới biết nhà ông thợ may Hài. à! Ra thế à? Đang cơn tức, tôi định lành làm gáo vỡ làm môi, nhưng cái ông Hài ấy mau miệng đã mời tôi ở lại trong nhà ông. Vợ ông ta chết từ nảo nào. Dần dà tôi trở thành vợ ông ta. Trở thành vợ ông ta lúc nào tôi cũng không hay nữa. Tôi thì nhờ trời vẫn to khoẻ. Nhưng ông Hài thì ngày một còm nhom. Ông ta bị bệnh gì đó trong ngực. Thế là không có con. Thế là ông ta chửi mắng nhiếc móc tôi hết điều. Nào là tôi vô phúc, nào là tôi lạc giống tịt đẻ. Rồi còn đánh tôi bằng thước đo vải nữa chứ. Thế nhưng ông ta vẫn giữ riết lấy tôi, ngày cũng như đêm tìm mọi cách dày vò con người tôi.
... Trong nhà có tiếng ho.
- Ông thức! - Tôi nói.
- Không phải đâu. Ho trong giấc ngủ đó. Để cho ông ấy ngủ.
- Sáng mai ta đưa ông đi viện chị ạ - Tôi bàn.
- Đi rồi - Chi lắc đầu, ngửa mặt lên trời - Một bữa thấy nóng ruột, máy mắt, tôi chạy về thuyền ông. Ông ấy ốm, người nóng hầm hập, giãy giụa, nói lảm nhảm. Tôi ôm lấy ông, còn ông thì rê bàn tay khắp con người tôi. Suốt đêm ở giữa sông. Sông Nghèn bữa đó chẳng biết sao sóng mới dữ chứ. Cứ ào ào ào ào. Sáng ra tôi chèo thuyền đưa ông đến bệnh viện huyện. Người ta khám, bảo ông bị bệnh phổi sắp đến kỳ di căn, thêm bệnh thấp khớp vào tim không chữa được. Tội nghiệp! Anh tính, suốt đời sông nước chi mà không bệnh tật. Mấy ngày ông ở viện tôi chạy về kéo con thuyền lên, tháo ra dựng cái nhà này. Tôi muốn lúc sắp chết ông ấy không còn phải chòng chành. Hàng chục năm chòng chành đã đủ. Tôi tính sai bụng ông. ở viện về ông nhìn ván thuyền thưng quanh nhà, nước mắt chảy tràn. Suốt ngày ông nằm nghiêng, ngoảnh mặt về phía cửa sổ, phía sông Nghẽn ấy. Tôi bèn ra chợ Nhu mua một cái võng lác. Tôi đặt ông lên võng rồi vừa chao võng, vừa hát. Tôi hát thế này.
Rủ nhau xuống biển mò cua
Đưa về nấu quả mơ chua trên rừng
Ai ơi chua ngọt đã từng
Non xanh nước bạc xin đưng quên nhau.
Ông ấy tưởng mình đang nằm trên thuyền, nguôi, vui và có vẻ khoẻ ra.
Ông Hài kiện tôi lên xã. Xã đòi tôi. Họ lệnh cho tôi, không được bỏ ông Hài đi lại với ông Trìu. Họ bảo, tôi là mụ đàn bà không ở trong một đoàn thể xã hội nào, phẩm chất tôi non kém. Mặc! Chẳng ai giữ được tôi hết. Ông Hài cũng thế. Cứ mà đạo vợ chồng, đêm tôi vẫn nằm ôm ông Hài, ủ cho ông ta ngủ, gần sáng thì lén dậy đến với ông Trìu... Hôm qua ông Trìu nói với tôi, nghe thật thương. Ông ấy nói thế này: “Bà tha tội cho tôi. Xuống dưới đó tôi sẽ làm con ma đi theo giúp đỡ bà. Giờ bà thương tôi, bà cho tôi xuống sông tắm một trận, tắm nơi khúc Cá Hẻn có cái nghềnh đá và cây bần già ấy...”. Thế đó! người còn sống sờ sờ, còn ăn chơi, còn ngày rộng tháng dài, có ai nghĩ được như ông nhà tôi không? Ông ấy... ông chồng tôi ấy... sắp chết còn muốn được nhìn sông... Sông... Sông Nghẽn là cái sung sướng, cái cực nhọc của ông...
Chị Thảo khóc nấc. Người chị mềm nhũn. Tôi ôm lấy hai vai chị, an ủi bằng những tiếng thì thào mà chính tôi cũng không hiểu mình nói gì.
Trong nhà vang lên tiếng rên hừ hừ. Tiếp đó là tiếng lạch xạch, chắc người ốm đang cào cấu lên phên nứa hay mặt chiếu. Chị Thảo đứng nhanh dậy. Tôi theo chị đi vào nhà. Chị cúi gập người bên giường ông Trìu khóc nức nở.
Tôi quỳ gối xuống đất, áp ngực vào thành giường lay gọi ông. Ông không nhận ra tôi nữa. Khuôn mặt nhăn nheo mỏng như tờ giấy của ông chập chờn trước mắt tôi. Ông khua khoắng đôi tay với một sự cố gắng ghế gớm nào đó đến nỗi những đường gân nơi cổ nổi cộm lên, và khi đó, đôi bàn tay ấy, gặp tay chị Thảo, bíu lấy, im phắc.
Nửa đêm về sáng ông Trìu tắt thở.
Chị Thảo không khóc, không nói. Chị tắm cho ông Trìu, mặc cho ông bộ quần áo màu đỏ, xong ngồi lặng yên như một gốc cây dưới chân ông Trìu.
Gà gáy lần thứ nhất, chị nói:
- Ông chỉ có một điều ước: Tôi có con
Gà gáy lần thứ hai, chị nói:
- Nhớ bỏ tấm lưới, cái vợt vào hòm cho ông; xuống dưới đó ông làm nghề.
Gà gáy lần thứ ba, chị nói:
- Ông thèm ăn một bữa xôi đậu xanh với thịt gà luộc.
Gà gáy rộ chị bảo tôi:
- Anh ngồi chỗ này canh chừng ông cho cẩn thận. Bên hàng xóm có mèo. Rồi chị đi nhanh ra khỏi nhà. Tôi không kịp hỏi chị đi đâu.
Tôi không thể kể với bạn đọc những gì xẩy ra trong lòng tôi suốt ba tiếng đồng hồ một mình với ông Trìu đã là người thiên cổ, trong ngôi nhà xa lạ, giữa đêm hôm khuya khoắt chỉ nghe mỗi tiếng sóng nguôi ngoai ngoài sông Nghẽn vọng vào và tiếng ngọn đèn dầu nổ ti tách.
Trời mờ sáng, chị Thảo về. Người chị ướt đẫm, đôi mắt đỏ kè. Vành khăn tang trắng khiến dáng điệu chị thiểu não hơn.
Chị đi đến bên ngọn đèn gần cạn dầu cháy leo lét, toả ánh sáng trắng đã thắp một bó hương. Toàn bộ con người chị như không để ý tới ai nữa, đến cái gì nữa ngoài ông Trìu. Hất lá màn lên, một tay bế ông Trìu, một tay cầm bó hương nghi ngút khói, chị đi qua trước mặt tôi ra sân. Bên ngoài mặt đất phủ đầy sương trắng. Những ngọn cây, chị Thảo và ông Trìu, những đốm lửa và khói hương vật vờ... Trôi về phía bờ sông. Cho đến lúc ấy tôi mới sực tỉnh. Tôi chạy theo chị.
Dưới gốc bần già hiện lên một con thuyền giống hệt con thuyền của ông Trìu ngày xưa. Tôi sấp ngửa đến được bên gốc bần thì chị Thảo đã đặt ông Trìu nằm trên thuyền, đầu gác lên cái đòn ngang dàn te và đang cho thuyền ra giữa sông.
- Chị Thảo - Tôi gào gọi.
Tóc xoã xượi, đôi vai xuội xuống, chị mệt mỏi quay nhìn tôi. ánh mắt chị, khuôn mặt chị thấm đẫm một một nỗi đau xa xót. Con thuyền chòng chành. Sương trắng dưới sông cuộn lên quyện lấy khói hương như một tấm vải liệm phủ lấy ông Trìu.
Trên tất cả những cái đó, cao ngất giữa thinh không, mặt trời nóng bỏng của miền Trung tròn vo rừng rực cháy, còn hai bên thuyền những đám lau ngã bông trắng rũ rượi, những cây bần buồn thiu tung những cành hoa như những cái kim khâu đỏ màu máu xuống sông.
Dân làng Vạn kéo ra mỗi lúc một đông, đứng chen chúc sau lưng tôi. Họ bàn tán trước sự việc đang diễn ra. Tôi mãi dõi theo con thuyền.
Ông Trìu đã đến khúc sông cá Bống, sang khúc cá Chép... Ông sắp về đến khúc Cá Hẻn, nơi có cái nghềnh đá và cây bần; nơi ngày xưa.../.
Bình luận